Về vấn đề kiểm duyệt và sự can thiệp của chính phủ, tui xin được phép chia sẻ với các bạn góc nhìn về nước Mỹ, 1 đất nước nổi tiếng tự do. Liệu tự do thật sự có tồn tại hay không?
Hội thảo cuối tuần ở Massachusetts (Mỹ) trong hai ngày 15-16/4/1989.
Noam Chomsky, Giáo sư Học viện MIT (Massachusetts Institute of Technology), Mỹ.
- Thưa Giáo sư Chomsky, tôi ko hoàn toàn nhìn ra cơ chế kiểm soát tư tưởng thực sự hoạt động như thế nào trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, như kinh tế học hay khoa học chính trị chẳng hạn. Ý tôi muốn nói, các trường học rốt cuộc là 1 hệ thống truyền bá chính xác như thế nào? Giáo sư có thể mô tả quá trình chi tiết hơn được ko?
Nếu 1 nhà khoa học chính trị hay 1 nhà kinh tế học trẻ tuổi nào đó quyết định cố gắng hỏi những câu hỏi đúng thì những cơ hội sẽ là họ sẽ bị đưa ra ngoài lề theo 1 kiểu nào đó, hay bị loại khỏi thể chế. Ở mức cực đoan, đã thường xuyên có những sự thanh trừng ở các trường đại học tại Mỹ. Ví dụ, trong những năm 1950, các trường đại học đã rửa sạch tư tưởng bất đồng chính kiến – người ta bị sa thải hay ko được phép giảng dạy vì tất cả các lí do. Hậu quả của cuộc thanh trừng ấy là rất lớn. Sau đó, vào cuối những năm 1960, khi trào lưu chính trị thực sự diễn ra, những cuộc thanh trừng lại bắt đầu trở lại, và thường chúng là những cuộc sa thải chính trị trực tiếp, ko cần phải che đậy. Chẳng hạn, nhiều học giả gốc châu Á tốt nhất ở Mỹ hiện nay đang dạy ở Australia và Nhật Bản, bởi vì họ ko thể giữ được việc làm ở Mỹ. Họ có những ý tưởng "sai lầm". Australia có những học giả gốc châu Á tốt nhất trên thế giới, và hầu hết họ là người Mỹ, những học giả trẻ tuổi vào những năm 1960 ko tìm được đường vào hệ thống học thuật của Mỹ, bởi vì họ nghĩ ra những "điều sai". Vì vậy, nếu các bạn muốn nghiên cứu về Campuchia với 1 học giả hàng đầu của Mỹ, thì về cơ bản các bạn phải sang Australia. Một trong các nhà sử học về Nhật Bản giỏi nhất thế giới (Herbert Bix) đang dạy ở 1 trường đại học ở Nhật Bản – ông ta là 1 người Mỹ, nhưng ông ta ko thể kiếm được việc làm ở Mỹ.
Hay hãy để tôi kể cho các bạn 1 câu chuyện về MIT, 1 câu chuyện khá hấp dẫn. Một giáo sư khoa học chính trị trẻ tuổi – người mà tình cờ hiện nay là 1 trong những học giả hàng đầu, Thomas Ferguson – được bổ nhiệm làm trợ lí giáo sư ở MIT sau khi anh ta nhận học vị Tiến sĩ ở Đại học Princeton. Anh ta rất cấp tiến, và anh ta cũng cực kì thông minh, vì vậy bộ môn rất cần anh ta. Một ngày, khi tôi đang ngồi trong văn phòng, thì anh ta xuất hiện với thái độ bực bội. Anh ta bảo tôi rằng ông chủ nhiệm bộ môn của anh ta vừa vào văn phòng của anh ta và nói thẳng: “Nếu anh muốn có biên chế trong bộ môn này, thì hãy tránh động đến tất cả mọi thứ diễn ra sau chương trình Chính sách Kinh tế Xã hội Mới; anh chỉ có thể viết tất cả những tư tưởng cấp tiến của mình về thời kì có chương trình Chính sách Kinh tế Xã hội Mới, nếu anh vẫn quyết tâm viết về thời kì hậu chương trình Chính sách Kinh tế Xã hội Mới thì anh sẽ ko bao giờ nhận được biên chế ở bộ môn này.” Ông ta nói toạc ra với anh ta như vậy. Thường các bạn ko bị nói toạc ra như thế, nhưng các bạn phải hiểu điều đó – các bạn phải hiểu nó từ những phản ứng mà các bạn nhận được.
Kiểu sự việc này cũng xảy ra đối với những sinh viên tốt nghiệp. Tôi là người được gọi là “Giáo sư của viện” ở MIT, có nghĩa là tôi có thể dạy 1 số môn học trong bất kì khoa nào của trường đại học này. Và qua nhiều năm, tôi đã dạy ở nhiều khoa trong trường, nhưng nếu tôi tiến gần đến khoa học chính trị, thì các bạn có thể cảm thấy sự rung cảm xấu xa bắt đầu. Vì vậy trong các bộ môn khác, tôi thường được mời vào các Hội đồng Tiến sĩ của sinh viên, nhưng trong khoa học chính trị, điều đó hầu như ko bao giờ xảy ra.
Vài năm trước, 1 nữ học viên sau đại học thông minh trong bộ môn khoa học chính trị muốn viết 1 luận án về truyền thông ở Nam Phi, cô ta muốn tôi ở hội đồng chấm luận án tiến sĩ của cô ta. Được thôi, nó là 1 đề tài mà tôi quan tâm, và có thể tôi đã nghiên cứu vấn đề này nhiều hơn bất kì người nào khác ở bộ môn ấy, vì vậy ko còn cách nào để họ nói rằng tôi ko thể chấm được luận án đó. Sau đó thủ tục bắt đầu. Giai đoạn đầu tiên của quy trình tiến sĩ là ứng viên gặp 1 vài cán bộ giảng dạy và trình bày đề cương nghiên cứu. Thường hai giáo viên có mặt, đó là về đề cương. Nhưng lần đó lại khác: họ lưu hành 1 bản thông báo qua bộ môn nói rằng mọi giáo viên đều phải có mặt – và lí do là, tôi sẽ ở đó, và họ phải chiến đấu với ảnh hưởng hiểm ác này. Vì vậy mọi người đều xuất hiện.
Thế rồi, nữ học viên bắt đầu trình bày đề cương nghiên cứu của cô ta, và các bạn có thể nhìn thấy mặt người ta bắt đầu tái nhợt. Một người nào đó hỏi cô ta: “Giả thuyết của chị là gì?” – chị phải có giả thuyết chứ - và đó là việc đưa tin của giới truyền thông ở Nam Phi sẽ bị ảnh hưởng bởi những khoản lợi nhuận của công ty. Người ta hầu như chết đứng. Sau đó việc phân tích phê phán bắt đầu: “Phương pháp nghiên cứu của chị sẽ là gì? Chị sẽ dùng phép thử nào?”. Và cuối cùng 1 bộ máy được thiết lập và 1 cấp độ chứng cứ được yêu cầu mà bạn ko thể đáp ứng được trong các ngành khoa học xã hội. Họ yêu cầu rất nhiều những rác rưởi trong luận án của cô ấy, các con số, bảng biểu và công việc vô nghĩa. Nhưng cuối cùng cô ta đã vượt qua được, chỉ vì cô ta sẵn sàng chiến đấu đến cùng.
Tôi sẽ kể cho các bạn 1 trường hợp khác – và có nhiều trường hợp khác giống trường hợp này. Bao nhiêu người trong số các bạn biết về Joan Peters, cuốn sách do Joan Peters viết? Có 1 cuốn sách bán chạy nhất 1 vài năm trước (vào năm 1984), nó được tái bản khoảng 10 lần, bởi 1 người phụ nữ có tên là Joan Peters – hay ít nhất được kí tên là Joan Peters – sách có tên là From Time Memorial (Từ thời tưởng niệm). Nó là 1 cuốn sách lớn, có vẻ học thuật, với nhiều mục ghi chú ở cuối dường như có ý chỉ ra rằng người Palestine là những người di cư gần đây. Và nó rất nổi tiếng, nó được hàng trăm bài điểm sách ca ngợi, và ko có bài điểm sách nào tiêu cực cả: tờ Washington Post, tờ New York Times, tất cả đều ca ngợi. Đây là cuốn sách đã chứng minh rằng thực sự ko có người Palestine! Tất nhiên, thông điệp ngầm là, nếu Israel tống cổ tất cả người Palestine ra ngoài thì cũng ko có vấn đề gì về đạo đức cả, bởi họ chỉ là những người dân di cư gần đây. Và có tất cả các loại phân tích nhân khẩu học trong cuốn sách, và 1 giáo sư nhân khẩu học nổi tiếng của Đại học Chicago (Phillip M. Hauser) xác nhận điều đó. Đó là 1 thành công lớn về trí tuệ của năm đó, mọi người đều nói về cuốn sách như là 1 công trình vĩ đại.
Một học viên sau đại học ở Princeton, người có tên là Norman Finkelstein, bắt đầu đọc hết cuốn sách. Anh ta quan tâm đến lịch sử của chủ nghĩa phục quốc Do Thái, và khi anh ta đọc cuốn sách thì anh ta ngạc nhiên bởi những điều nó nói. Anh ta là 1 học viên cẩn trọng, và thế là anh ta bắt đầu kiểm tra các tài liệu tham khảo. Hóa ra, toàn bộ sự việc là 1 trò lừa đảo, nó hoàn toàn giả mạo: có lẽ nó được chắp nối lại với nhau bởi 1 cơ quan tình báo nào đó hay 1 tổ chức nào đó giống như vậy. Finkelstein viết 1 bài ngắn về những tìm kiếm ban đầu, nó khoảng hơn 20 trang, và anh ta gửi nó cho khoảng 30 người quan tâm đến chủ đề này, các học giả trong lĩnh vực này… và nói rằng: “Đây là những gì tôi tìm thấy trong cuốn sách, các vị thấy có đáng để theo đuổi ko?”.
Anh ta nhận được 1 câu trả lời từ tôi. Tôi bảo anh ta, đúng, tôi nghĩ nó là 1 chủ đề thú vị, nhưng tôi cảnh báo anh ta, nếu anh ta theo đuổi chủ đề đó, thì anh ta sẽ gặp phiền phức, bởi vì anh ta đang phơi bày cộng đồng trí tuệ Mỹ như là 1 nhóm người gian lận, và họ sẽ ko thích điều đó, người ta sẽ loại bỏ anh ta. Vì vậy tôi nói: nếu anh ta muốn làm điều đó thì tiếp tục làm đi, nhưng cẩn thận với những gì anh ta sẽ rơi vào. Nó chuẩn bị cơ sở cho 1 số điều thực sự rùng rợn. Vì vậy, cuộc sống của nhiều người có thể sẽ bị đe dọa. Nhưng cuộc sống của anh ta cũng sẽ bị đe dọa, tôi bảo anh ta, bởi vì nếu anh ta theo đuổi chủ đề này, thì sự nghiệp của anh ta sẽ bị tiêu tan.
Nhưng anh ta ko tin tôi. Anh ta tiếp tục và hoàn thành 1 bài báo, anh ta bắt đầu gửi bài báo đó đến các tạp chí. Chẳng có gì cả: thậm chí họ ko thèm trả lời. Trong khi đó, các giáo sư của anh ta – đây là Đại học Princeton, được cho là 1 nơi nghiêm chỉnh – ngừng ko nói chuyện với anh ta: họ ko hẹn gặp anh ta, họ ko đọc những bài báo của anh ta, về cơ bản anh ta phải bỏ học.
Vào lúc ấy, anh ta bị tuyệt vọng, và anh ta hỏi tôi phải làm gì. Tôi nói cho anh ta cái mà tôi nghĩ là 1 lời khuyên chân thành, nhưng hóa ra nó lại là 1 lời khuyên tồi tệ. Tôi gợi ý anh ta nên chuyển sang học ở 1 bộ môn khác, nơi tôi biết 1 số người và hình dung ít nhất anh ta cũng được đối xử 1 cách phù hợp. Điều đó hóa ra lại sai. Anh ta chuyển bộ môn, và khi anh ta chuẩn bị viết luận văn, thì anh ta ko thể nhờ giảng viên nào đọc nó, anh ta ko thể mời họ đến dự buổi bảo vệ luận văn của mình. Cuối cùng, vì lúng túng, họ phải cấp bằng tiến sĩ cho anh ta – anh ta thật sự rất thông minh mà – nhưng thậm chí họ ko viết thư giới thiệu cho anh ta nói rằng anh ta là sinh viên của Đại học Princeton. Người sinh viên này là sinh viên tốt, nhưng anh ta hoàn toàn ko thể nhận được 1 lá thư giới thiệu nào.
Hiện nay, anh ta đang sống tại 1 căn hộ nhỏ trong thành phố New York, anh ta là 1 nhân viên xã hội làm việc bán thời gian, giải quyết những vấn đề về học sinh bỏ học. Một học giả rất triển vọng – nếu anh ta làm cái mà anh ta được yêu cầu, thì anh ta đã tiến thân và ngay bây giờ anh ta đã là 1 giáo sư trong 1 trường đại học lớn ở 1 nơi nào đó. Thay vào đó, anh ta lại làm việc bán thời gian với những học sinh tuổi thiếu niên có vấn đề để có được 1 vài nghìn đô la tiền lương một năm.
Đó là những thủ đoạn kiểm soát ở mọi nơi với kết quả là ngăn chặn sự hiểu biết nghiêm túc ko cho nó đi vào cái cách mà quyền lực thực sự hoạt động trong xã hội. Các thể chế quyền lực rõ ràng ko muốn bị điều tra. Tại sao họ lại như vậy nhỉ? Họ ko muốn công chúng biết họ hoạt động như thế nào, có thể những người ở bên trong những thế chế đó hiểu được chúng hoạt động như thế nào, nhưng họ ko muốn bất kì người nào khác biết, bởi vì điều đó sẽ đe dọa và ngầm phá hoại quyền lực của họ. Và 1 trong những cách để họ tự vệ mình là thông qua những thủ thuật kiểm tra tư tưởng tinh vi giống như những thủ thuật này.
- Thưa Giáo sư Chomsky, mục đích của cuộc chạy đua vũ trang là gì?
Ồ, có rất nhiều điều để nói, nó phục vụ một số chức năng quan trọng. Nhớ rằng bất kì một quốc gia nào cũng đều có một kẻ thù trước mắt: dân chúng trong nước. Nếu bất ổn chính trị bắt đầu nổ ra trong lòng đất nước của bạn và dân chúng bắt đầu hoạt động tích cực, thì tất cả những điều kinh khủng có thể xảy ra. Vì vậy, các bạn phải giữ cho dân chúng yên lặng, ngoan ngoãn và thụ động. Xung đột quốc tế chính là cách tốt nhất để làm việc đó. Nếu có một kẻ thù lớn thì người dân sẽ từ bỏ quyền lợi của họ, bởi vì họ phải tồn tại. Vì vậy, chạy đua vũ trang có chức năng rất hữu dụng ở khía cạnh đó. Nó tạo ra sự căng thẳng toàn cầu và một cảm giác sợ hãi.
Nó cũng rất hữu dụng trong việc kiểm soát đế chế. Ví dụ, nếu chúng ta muốn xâm lược miền Nam Việt Nam, chẳng hạn, thì chúng ta phải có khả năng làm cho nó trông như thể chúng ta đang tự bảo vệ mình khỏi người Nga. Nếu chúng ta không có khả năng làm việc đó, thì việc xâm lược miền Nam Việt Nam sẽ khó khăn hơn rất nhiều, dân chúng trong nước sẽ không chấp nhận. Để làm những việc đó rất tốn kém, ít nhất cũng về mặt đạo lí.
Cuộc chạy đua vũ trang cũng có vai trò quan trọng trong việc duy trì nền kinh tế - và đó là một vấn đề lớn. Giả sử cuộc chạy đua vũ trang thực sự giảm xuống thì làm sao các bạn có thể buộc người dân (những người đóng thuế) duy trì việc bao cấp cho ngành công nghiệp công nghệ cao giống như họ đã làm trong 50 năm qua được? Liệu có nhà chính trị nào dám dứng lên và nói: “Sang năm bạn sẽ hạ mức sống bởi vì phải trợ cấp cho hãng IBM để nó có thể sản xuất ra máy tính thế hệ thứ năm?”. Không một ai có thể thuyết phục người nghe theo cách nói đó. Nếu một chính trị gia nào nói theo cách đó, thì dân chúng đáp lại: “Được thôi, chúng tôi cũng muốn bắt đầu được tham gia vào việc lập chính sách kinh tế và xã hội”.
Trên thực tế, nguy cơ đó đã được thảo luận công khai trên sách báo của Mỹ trong 40 năm qua. Giới lãnh đạo doanh nghiệp biết rất rõ điều mà mọi nhà kinh tế đều biết, rằng chi phí cho các mục đích dân sự có thể thậm chí còn hiệu quả hơn, có lợi nhuận cao hơn là các chi phí cho các mục đích quân sự. Và họ cũng biết có nhiều cách bắt dân chúng phải bao cấp cho ngành công nghiệp công nghệ cao ngoài cách thông qua hệ thống Lầu Năm Góc – giới kinh doanh biết điều đó rất rõ., và cũng biết những lí do không chọn cách khác. Những lí do ấy từ lâu nay vẫn thế không thay đổi.
Nếu bạn theo học một khóa về kinh tế, thì họ sẽ dạy bạn rằng nếu chính phủ chi ra một khoản n đô la để kích thích nền kinh tế, thì việc nó được chi vào đâu thực sự không quan trọng. Họ có thể chế tạo máy bay phản lực, có thể chôn nó xuống dưới cát rồi lại cho người đi đào tìm, họ có thể xây dựng đường sá và nhà cửa, họ có thể làm đủ mọi thứ. Về mặt kích thích nền kinh tế thì tác động kinh tế của những việc đó không khác nhau lắm. Thực tế thì rất có thể chi phí quân sự thực sự ít hiệu quả kích thích hơn chi phí xã hội, vì nhiều lí do. Nhưng vấn đề là, chi phí cho các mục đích dân sự có những tác động phụ tiêu cực. Thứ nhất, nó can thiệp vào những đặc quyền quản lí. Đồng tiền rót qua hệ thống Lầu Năm Góc đúng là món quà tặng trực tiếp cho giới lãnh đạo công ty.
Thứ hai, thậm chí có lẽ còn nghiêm trọng hơn khi nhìn từ quan điểm quyền lực cá nhân, là chi phí xã hội làm tăng nguy cơ dân chủ, và nguy cơ tăng sự tham gia của dân chúng vào việc ra quyết định. Ví dụ, nếu chính phủ tham gia vào việc xây dựng bệnh viện, trường học và đường sá và những việc đại loại như vậy, thì lập tức dân chúng sẽ quan tâm đến những việc đó, họ sẽ muốn có tiếng nói của mình bởi vì nó tác động đến họ, liên quan đến đời sống của họ. Mặt khác, nếu chính phủ nói: “Chúng ta sẽ chế tạo máy bay tàng hình Stealth Bomber”, thì sẽ không ai có bất kì ý kiến gì. Người dân quan tâm đến việc ở đâu sẽ có trường học hay bệnh viện, họ không quan tâm đến kiểu máy bay phản lực nào được chế tạo, bởi họ chẳng biết tí ti gì về điều đó. Một trong những mục đích chính yếu của chính sách xã hội là giữ cho dân chúng ở trạng thái thụ động, nên những người có quyền muốn loại trừ bất cứ điều gì có xu hướng khuyến khích dân chúng tham gia vào việc lập kế hoạch, bởi vì sự tham gia của quần chúng đe dọa sự độc quyền về quyền lực của giới kinh doanh, đồng thời kích thích các tổ chức quần chúng, huy động người dân, và có thể sẽ dẫn đến việc phân phối lại lợi nhuận…
- Thế nếu chỉ giảm thuế, thay vì đổ tất cả tiền vào tổ hợp công nghiệp – quân sự thì thế nào, thưa Giáo sư?
Bạn không thể giảm thuế nhiều được, bởi vì lấy gì để duy trì nền kinh tế phát triển? Nhớ rằng, người ta đều biết kể từ thời kì Đại suy thoái, bất kì cái gì giống như chủ nghĩa tư bản với thị trường tự do sẽ dẫn tới thảm họa. Không thể khác. Do đó, những quốc gia trên thế giới có nền kinh tế thành công đều có điểm nào đó gần với chủ nghĩa phát xít – nghĩa là, có sự can thiệp trên quy mô lớn của chính phủ vào nền kinh tế để điều phối nó và bảo vệ nó chống lại những thế lực thù địch, như việc có quá nhiều cạnh tranh chẳng hạn. Ý tôi muốn nói, thực sự không có một cách nào khác. Nếu bạn kéo tấm thảm dưới chân các doanh nghiệp tư nhân, thì ngay lập tức chúng ta sẽ rơi trở lại thời kì Đại suy thoái. Đó là lí do tại sao mọi nền kinh tế công nghiệp đều có khu vực nhà nước đồ sộ - và ở Mỹ, khu vực nhà nước đồ sộ của chúng ta hoạt động chủ yếu thống qua hệ thống quân sự.
Ý tôi muốn nói, IBM sẽ không trả các chi phí nghiên cứu và phát triển. Tại sao họ lại phải trả cho những thứ đó nhỉ? Họ muốn người dân đóng thuế phải trả cho những thứ này, bằng việc tài trợ cho một chương trình của NASA hay loại máy bay chiến đấu đời tiếp theo, chẳng hạn. Và nếu họ không thể bán được mọi sản phẩm họ sản xuất ra ngoài thị trường thương mại, thì họ muốn những người đóng thuế phải mua chúng, dưới hình thức một hệ thống phóng tên lửa hay một cái gì đó. Nếu kiếm được lời lãi thì càng tốt, nhưng họ bao giờ cũng muốn những khoản đóng góp của dân chúng mãi không cạn. Nhìn chung, đó chính xác là những gì xảy ra ở nước Mỹ trong 50 năm qua.
Ví dụ, vào những năm 1950, máy tính không thể bán ở thị trường được vì không đủ tốt. Vì vậy, người dân đóng thuế phải trả 100% chi phí nghiên cứu phát triển thông qua hệ thống quân sự (cùng với 85% chi phí nghiên cứu phát triển cho ngành điện tử nói chung). Vào những năm 1960, máy tính bắt đầu có thể bán được trên thị trường, và thế là chúng được chuyển cho các công ty tư nhân để sản xuất và kiếm lợi nhuận; nhưng vẫn có khoảng 50% chi phí cho phát triển máy tính là từ nguồn đầu tư công vào những năm 1960. Và những năm 1980, có một dự án máy tính “thế hệ thứ năm” lớn và mới, họ phát triển phần mềm mới khác thường, các kiểu máy tính mới…. Và sự phát triển của tất cả những thứ đó cực kì tốn kém. Do vậy, những chi phí này lại được lấy từ nguồn đóng thuế. Đó chính là Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (SDI) – Chiến tranh trên các vì sao. Chương trình Chiến tranh trên các vì sao về cơ bản là một thủ đoạn nhằm bao cấp cho ngành công nghiệp công nghệ cao. Không ai tin rằng nó là một hệ thống phòng thủ - ý tôi muốn nói, có thể ông Reagan tin nó, nhưng không một ai có trí tuệ lại tin rằng chương trình Chiến tranh trên các vì sao là một hệ thống phòng thủ. Nó chỉ là một cách để bao cấp cho việc phát triển một thế hệ công nghệ cao mới – phần mềm khác thường, các hệ thống máy tính tinh vi. Các máy tính thế hệ thứ năm, laze…. Và nếu từ chương trình đó có bất kì sản phẩm nào bán được ra thị trường thương mại, thì ngay sau đó lợi ích của người dân đóng thuế sẽ lại bị gạt sang một bên như thường lệ, để cho các công ty sản xuất và thu lợi nhuận.
Hãy xem xét những khu vực kinh tế Mỹ có tính cạnh tranh quốc tế: đó là nông nghiệp, một ngành nhận được những khoản bao cấp khổng lồ của nhà nước; ngành công nghiệp mũi nhọn công nghệ cao được hưởng chi phí từ Lầu Năm Góc; và ngành công nghiệp dược, được bao cấp nặng từ ngân sách nghiên cứu khoa học – đó là những khu vực có trình độ cạnh tranh cao trong nền kinh tế. Tình hình cũng tương tự ở mọi quốc gia khác trên thế giới. Các nền kinh tế thành công là các nền kinh tế có khu vực chính phủ lớn. Ý tôi là, nếu Thế giới thứ Ba chọn chủ nghĩa tư bản thì tốt thôi – vì chúng ta muốn thấy họ kém hiệu quả mà. Nhưng còn chúng ta thì không thể chấp nhận nó. Hơn nữa, điều này đã đúng kể từ thời kì khời đầu của cuộc cách mạng công nghiệp: không có một nền kinh tế nào trong lịch sử phát triển được mà không có sự can thiệp mạnh của nhà nước thông qua những khoản bao cấp và bảo hộ thuế quan…. Tất cả những gì chúng ta ngăn cản không cho Thế giới thứ Ba làm thực ra đã là những điều kiện tiên quyết cho sự phát triển ở mọi nơi khác. Tôi cho rằng điều đó không có ngoại lệ. Vì vậy, trở lại với câu hỏi của anh, không có cách nào để cắt giảm thuế quá nhiều mà lại không làm sụp đổ toàn bộ nền kinh tế.
- Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy Giáo sư nói rằng Lầu Năm Góc rất quan trọng đối với nền kinh tế của chúng ta.
Khó có một thành phần nào của ngành công nghiệp công nghệ tiên tiến ở nước Mỹ mà lại không bị ràng buộc vào hệ thống Lầu Năm Góc, bao gồm cả NASA, Bộ Năng lượng (sản xuất vũ khí hạt nhân), toàn bộ cái bộ máy ấy. Trên thực tế, về cơ bản đó chính là vai trò của Lầu Năm Góc, và đó cũng là lí do tại sao ngân sách của nó thường không thay đổi. Những người tốt nghiệp đại học là những kĩ sư, và những người công nhân lành nghề, những người quản lí…, họ phụ thuộc rất nhiều vào toàn bộ hệ thống của Lầu Năm Góc để có việc làm. Vì vậy, thậm chí một sự cắt giảm nhẹ về chi phí quân sự cũng trực tiếp tác động đến mức lương thực tế của bộ phận những người này.
Thực ra, nếu bạn nhìn lại các cuộc tranh luận diễn ra vào cuối những năm 1940, khi hệ thống Lầu Năm Góc lần đầu tiên được thiết lập, thì sẽ thấy rất rõ. Các bạn phải xem xét toàn bộ quá trình phát triển của nó trong bối cảnh những gì mới xảy ra trước đó. Có cuộc Đại suy thoái vào những năm 1930, trên toàn thế giới, và ở thời điểm đó, mọi người đều hiểu rằng chủ nghĩa tư bản đã chết. Ý tôi muốn nói, cho dù người ta còn vương vấn chút niềm tin vào nó (mà thực ra trước đó họ chẳng còn tin là mấy), thì chúng đều tan biến hết vào thời điểm đó, bởi vì toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa vừa lộn nhào trong cú rơi tự do vào khủng hoảng, không có cách nào cứu vãn được. Thế rồi, các quốc gia giàu có đều đi đến một phương pháp thoát hiểm ít nhiều giống nhau. Họ độc lập, không ai bảo ai nhưng rồi cũng đi đến một phương pháp như nhau – đó là, chi phí nhà nước, chi phí công – cái được gọi là phương pháp “kích thích Keynes”. Và chính cái đó cuối cùng đã thực sự giúp cho các nước thoát khỏi cuộc Đại suy thoái. Ở các nước phát xít hiệu quả rất rõ, họ thoát ra khỏi đại khủng hoảng khá nhanh. Và trên thực tế, mọi quốc gia đều trở nên một chút phát xít; ở đây chủ nghĩa phát xít không có nghĩa là những lò thiêu người, mà có nghĩa là một mô hình sắp xếp kinh tế đặc biệt với sự điều phối của nhà nước đối với các nghiệp đoàn và các công ty, và dành vai trò to lớn cho các ngành kinh doanh lớn. Thực ra chính các nhà kinh tế thời thượng lúc đó theo tư tưởng Veblen (nhà kinh tế học người Mỹ Veblen) đã nói rằng mọi người đều phát xít – vấn đề là hình thức nào của chủ nghĩa phát xít mà thôi: chủ nghĩa phát xít có những hình thức khác nhau tùy thuộc vào các mô thức văn hóa của từng nước.
Ở nước Mỹ, chủ nghĩa phát xít lúc đầu là dưới hình thức Chương trình Kinh tế Xã hội Mới (The New Deal) – các chương trình lập pháp được ban hành vào những năm 1930 để đối phó với cuộc Đại suy thoái. Nhưng Chương trình Kinh tế Xã hội Mới quá nhỏ bé, thực sự không có nhiều tác động. Năm 1939, cuộc Đại suy thoái vẫn xấp xỉ ở mức khủng hoảng năm 1932. Sau đó Thế chiến II xảy ra, và đến lúc đó thì chúng ta thực sự trở thành phát xít. Về cơ bản, chúng ta có một xã hội chuyên chế, với một nền kinh tế chỉ huy, kiểm soát đồng lương và giá cả, phân phối vật tư, tất cả đều trực tiếp từ Washington. Những người điều hành nó hầu hết là các giám đốc công ty, những người được triệu đến thủ đô để điều hành nền kinh tế trong nỗ lực thời chiến. Và họ thành công. Nền kinh tế Mỹ phồn thịnh trong thời kì chiến tranh, sản xuất công nghiệp gần như tăng gấp bốn lần, cuối cùng chúng ta đã vượt ra khỏi cuộc Đại suy thoái.
Rồi chiến tranh kết thúc. Điều gì sẽ xảy ra? Mọi người đều cho rằng chúng ta sẽ quay lại thời kì Đại suy thoái, bởi vì đã không có thay đổi gì cơ bản, điều khác duy nhất là chúng ta đã có một giai đoạn với sự kích thích kinh tế to lớn của chính phủ trong chiến tranh. Vì vậy câu hỏi lúc này là, bây giờ thì sao? Nếu bạn trở lại và đọc các nhà kinh tế, những người như Paul Samuelson và những người khác trong làng báo chí kinh doanh, vào thời điểm đó họ đều nói rằng công nghiệp tiên tiến, công nghiệp công nghệ cao, “không thể sống còn trong một nền kinh tế cạnh tranh, tự do kinh doanh và không có bao cấp” – điều đó đúng là vô vọng. Họ hình dung chúng ta đang quay trở lại thời kì Đại suy thoái, nhưng giờ thì họ đã biết lời giải: sự kích thích của chính phủ. Và đến lúc đó họ thậm chí còn có cả một học thuyết về điều này, học thuyết Keynes; trước đó họ chỉ làm theo bản năng.
Vì vậy khi ấy, giới kinh doanh và những người lập kế hoạch chóp bu ở Mỹ đều thống nhất cho rằng chính phủ cần phải đổ một lượng vốn ngân sách công lớn vào nền kinh tế. Câu hỏi duy nhất là làm điều đó như thế nào. Thế rồi xuất hiện một cuộc tranh luận thú vị… thực ra cũng không hẳn là một cuộc tranh luận, bởi vì vấn đề đã được giải quyết trước khi được đưa ra. Nhưng ít nhất thì vấn đề cũng được nêu ra: chính phủ nên theo đuổi chi phí quân sự hay chi phí xã hội? Cuộc tranh luận này nhanh chóng cho thấy con đường chính phủ sẽ phải theo là chi phí quân sự. Và điều đó không phải vì những lí do hiệu quả kinh tế, không hề. Đó chỉ đơn giản vì những lí do quyền lực: chi phí quân sự không phân phối lại tài sản, không kích thích dân chủ, không tạo ra những nhóm tổ chức dân chúng hoặc khuyến khích người dân tham gia vào việc ra quyết định. Nó là một món quà trực tiếp cho giới lãnh đạo các công ty. Nó là một tấm đệm an toàn cho những quyết định của lãnh đạo với hàm ý rằng: “Cho dù bạn có làm gì đi nữa, thì bạn đã có một tấm đệm an toàn ở dưới kia rồi”. Và cũng không cần phải là một phần to lớn của tổng ngân sách, có thể chỉ là một vài phần trăm, nhưng đó cũng đủ là một tấm đệm an toàn rất quan trọng.
Không nên để công chúng biết điều này. Và như Stuart Symington, Tư lệnh Không quân Mỹ năm 1948 đã diễn đạt vấn đề một cách rất giản dị, ông ta nói: “Không được dùng từ ‘bao cấp’, mà phải dùng từ ‘an ninh’. Nói cách khác, nếu bạn muốn đảm bảo là chính phủ có thể tài trợ cho ngành công nghiệp điện tử, ngành công nghiệp chế tạo máy bay, máy tính, luyện kim, máy công cụ, hóa chất…, và bạn không muốn công chúng có bất kì ý kiến gì, thì bạn phải duy trì sự giả tạo về các mối đe dọa an ninh thường trực – những mối đe dọa đó có thể là nước Nga, Libi, Grenada, Cuba, hay bất kì nước nào khác.
Đó chính là chức năng của hệ thống Lầu Năm Góc, một hệ thống nhằm đảm bảo một hình thức thống trị và kiểm soát cụ thể. Và hệ thống đó đã hoạt động hiệu quả cho những mục đích đặt ra từ khi được thiết lập: không phải để tạo cho người ta cuộc sống tốt hơn, mà là để “làm cho nền kinh tế lành mạnh.” Nói vậy có nghĩa là đảm bảo lợi nhuận của các công ty. Và nó đã thực sự làm được điều đó một cách rất hiệu quả. Cho nên các bạn thấy đấy, nước Mỹ rất coi trọng chạy đua vũ trang: cần có nó để kiểm soát tình hình trong nước, để kiểm soát đế chế, để giữ cho nền kinh tế hoạt động.
Trên thực tế, tôi đã tranh luận trong nhiều năm với bạn bè của tôi, những người vận động cho việc “chuyển đổi” nền kinh tế từ sản xuất quân sự sang chi phí xã hội. Tôi cho rằng về cơ bản họ chỉ nói vớ vẩn. Ý tôi là không phải giới kinh doanh phải được dạy mới biết rằng “thay vì chừng này chiếc máy bay phản lực thì chúng ta có thể có chừng kia trường học. Vậy thì việc sản xuất máy bay phản lực chẳng khủng khiếp lắm sao?”. Các bạn cũng không cần phải thuyết phục ông trùm General Motors về điều đó. Ông ta đã biết điều đó 40 năm trước khi có người bắt đầu nói đến việc “chuyển đổi”. Chính vì thế mà ông ta muốn sản xuất máy bay phản lực. Chẳng ích gì nếu cố giải thích cho những người đang cầm quyền rằng việc “chuyển đổi” sẽ tốt hơn cho thế giới. Chắc chắn là sẽ tốt hơn. Nhưng họ đâu cần quan tâm. Họ đã biết điều đó từ lâu, và chính vì vậy họ đi theo hướng ngược lại. Này các bạn: hệ thống này được thiết kế ra, với nhiều tư duy có trí tuệ và có chủ ý, nhằm phục vụ cho một mục đích cụ thể. Vì vậy, bất kì một kiểu “chuyển đổi” nào cũng sẽ phải là một phần của nỗ lực tái cấu trúc tổng thể xã hội, nhằm phá bỏ sự khống chế của trung ương.