Tôi sinh năm 1892, trải qua những năm đầu đời ở “Quận” trong thời đại tiền cơ khí. Hoặc đáng nói hơn, tôi là tín đồ Ki tô (có lẽ điều này cũng nhận ra được từ truyện tôi viết), thực tế là Công giáo La Mã. … Bản chất tôi là một người Hobbit (về mọi mặt, chỉ trừ kích cỡ). Tôi ưa vườn tược, cây cối và đồng ruộng vắng bóng máy móc; tôi thích hút tẩu, thích đồ ăn đơn giản mà ngon (không bỏ tủ lạnh), nhưng ghét món Pháp; tôi thích áo gi lê trang trí, vẫn dám mặc ngay cả trong thời đại ảm đạm này. Tôi khoái nấm (hái thẳng trên đồng); có khiếu hài hước rất tồi (ngay những nhà phê bình yêu quý tôi nhất cũng thấy chán ngấy); tôi đi ngủ muộn và dậy muộn (khi có điều kiện). Tôi không chu du nhiều.
(Thư gửi Deborah Webster, 1958)
Đó là “một vài chi tiết cơ bản… nhưng thực sự quan trọng” mà Tolkien nhận xét về bản thân mình, ba năm sau khi Chúa tể những chiếc Nhẫn ra mắt trọn vẹn (1954-5). Vào thời điểm ấy, ông đã đi qua hai cuộc Thế chiến, giảng dạy và công tác ở bốn trường đại học, trở thành một học giả, nhà biên tập và dịch thuật văn chương Cổ Anh ngữ có uy tín, người chồng và cha một gia đình đông đảo hạnh phúc, và tất nhiên, tác giả bảy đầu sách đã xuất bản[1], một trong số đó rồi sẽ trở thành “cuốn sách được yêu thích nhất thiên niên kỷ” theo khảo sát của Amazon.com năm 1999 (cùng nhiều cuộc khảo sát khác cho kết quả tương tự). Một cuốn sách tuổi đời non trẻ đã đánh bại các bậc thầy trong nền văn chương lâu dài và bề thế nước Anh, chiếm lĩnh trái tim bạn đọc thế giới ở mức độ mà Shakespeare, Jane Austen hay thậm chí cả Sherlock Holmes cũng không làm được, quả là một kỳ công.
Còn hiếm có hơn nữa nếu nhớ lại, như bài giảng “J. R. R. Tolkien: Cha đẻ của văn học Fantasy Hiện đại” (Christopher Mitchell, 2003) cho biết, cuốn sách ra đời trong thời kỳ các sáng tác fantasy, tuy đã định hình thành thể loại với khá nhiều tác giả, còn bị coi là một thứ á văn học, ngoài rìa Văn Chương viết hoa. Nếu không bị xếp vào ngăn “ba xu” coi như giải trí thứ cấp, thì cũng chỉ thuộc về kệ sách thiếu nhi: Anh chàng Hobbit viết cho đối tượng thiếu nhi, kể cả chương mở đầu của Chúa tể những chiếc Nhẫn cũng vậy, cho tới lúc trong quá trình viết, cuốn sách chợt phát triển theo những hướng nghiêm trọng hơn, chín chắn hơn. Biên niên sử Narnia, bộ sách không kém nổi tiếng của C. S. Lewis, bạn thân và là đồng nghiệp của Tolkien ở Oxford, hoàn toàn đặt trong truyền thống văn học thiếu nhi, dù mang dấu ấn thực tế chiến tranh khắc nghiệt bên ngoài. Chúa tể những chiếc Nhẫn đặt trong thế giới tưởng tượng nhưng lại nói những đề tài nghiêm túc, khi ra đời đã gây không ít lúng túng trong phản ứng của giới phê bình: bên cạnh những người nhiệt tình ca tụng, có một số coi đó là “truyện thần tiên” không đáng coi trọng, số khác lại hăm hở phê phán theo các tiêu chuẩn của tiểu thuyết hiện đại, chỉ trích cách xây dựng nhân vật, cốt truyện mà họ coi là “khiên cưỡng” hay kết cục mà họ thấy “khó tin”.
Đáp lại những chỉ trích ấy, đã có lịch sử tiếp nhận cuốn sách 70 năm qua làm chứng: cộng đồng hâm mộ Tolkien càng lúc càng lớn, ảnh hưởng Chúa tể những chiếc Nhẫn cùng các tác phẩm Tolkien khác trong văn hóa và đại chúng ngày càng sâu rộng. Sáng tác mỹ thuật dựa theo nhân vật và sự tích Tolkien nảy nở không thua gì hội họa dựa trên nền tảng thần thoại Hy-La hay các truyền thuyết trung đại. Người ta cosplay Hobbit và Tiên mùa Halloween. 9 video game lấy bối cảnh Trung Địa hoặc dựa vào cốt truyện Chúa tể những chiếc Nhẫn. Vô số album và bài hát nhạc rock, đồng quê hay cổ điển lấy cảm hứng từ sự tích, hoặc phổ nhạc cho các bài thơ của Tolkien, cũng vô số ban nhạc lấy tên từ thế giới của ông. Và giới học thuật cuối cùng cũng ngả mũ: nhiều cuốn sách và bài báo nghiên cứu về Tolkien-nhà-văn đã ra đời, đặc biệt từ năm 2000 trở lại đây; năm 2004, với sự ra mắt của tạp chí hàng năm Tolkien Studies, Tolkien đã trở thành một ngành nghiên cứu.
Nhưng thành công lớn nhất của Tolkien, như Mitchell nhận xét, là đã biến đổi hoàn toàn khí hậu tiếp nhận đương thời: với Chúa tể những chiếc Nhẫn, “truyện thần tiên” đã biến thành “sử thi”. Không chỉ trẻ nhỏ thấy câu chuyện phiêu lưu hấp dẫn, những người trưởng thành cũng đọc ra nhiều điều để chiêm nghiệm, để cảm hứng, để ngỡ ngàng suy tưởng về mạch chảy của lịch sử thế giới: nhất là trong một châu Âu vừa thoát ra khỏi hai cuộc đại chiến chưa lâu và đang lấp ló bên ngưỡng nhiều xung đột nhỏ hơn. Sau Tolkien, đọc tiểu thuyết fantasy trở thành một việc được chấp nhận. Người đọc fantasy thấy mình hoàn toàn có thể là người đọc nghiêm túc. Sáng tác fantasy trở thành một thể loại đáng trọng, thậm chí chủ lực của văn chương đương đại: trong giới xuất bản, các cuốn sách hay thậm chí bộ sách về những thế giới khác trở nên bùng nổ trong thập kỷ sau khi Chúa tể những chiếc Nhẫn ra đời, một hiện tượng đến nay vẫn chưa hề giảm sút. Tiên, Người Lùn, Orc, Quỷ khổng lồ, Người Tí Hon đã trở thành những khái niệm quen thuộc. Trận chiến giữa hai phe chính tà, đoàn phiêu lưu để hoàn thành một nhiệm vụ lớn lao, sự đoàn kết của mọi nòi giống “Người Dân Tự Do”, gánh nặng đặt lên lựa chọn cá nhân… đã thành những mô típ quen thuộc, thậm chí tất yếu, trong mọi tác phẩm sau này.
Như vậy, dù không trực tiếp ảnh hưởng ở cấp độ cá thể, nhưng Tolkien và Chúa tể những chiếc Nhẫn đã bắt đầu một thời đại trong đó cái fantasy song hành cùng cái thực: cho ta một thế giới trong đó “Văn học Fantasy” trở thành một tủ riêng trong hiệu sách, một thế giới có Harry Potter, Eragon và Artemis Fowl, có Final Fantasy cùng World of Warcraft, có Thủy thủ Mặt Trăng cùng các mahō shōjo Nhật… và tất nhiên có Peter Jackson cùng bộ ba phim Chúa tể những chiếc Nhẫn (2001-2003). Anh chàng Hobbit tập đầu tiên chào rạp tháng 12/2012; những đoàn người xếp hàng dài chờ mua vé nói lên sức hút không có tuổi của Trung Địa.
*
Một trong những điểm hấp dẫn chính của Chúa tể những chiếc Nhẫn lại không nằm trong những trang sách: mà là trong sự tồn tại của câu chuyện với tư cách một mảnh ghép làm thành “hệ truyền thuyết” (legendarium - chữ của Tolkien) về Trung Địa; nói cách khác, trong sự tồn tại của Trung Địa như một lục địa bên trong Arda (thế giới này), đến lượt nó lại nằm trong Eä (vũ trụ). Sâu xa hơn, những sáng tạo bay bổng của Tolkien-nhà-văn khởi nguồn từ những nghiên cứu “hũ nút” của Tolkien-học-giả (mặc dù nhìn từ cách khác, thành tựu văn chương dày dặn của Tolkien lại át mất thời gian làm con người nghiên cứu của ông!).
“Công trình ấy… bắt nguồn từ cảm hứng hết sức ngôn ngữ học và được thực hiện làm mục đích cung cấp bối cảnh ‘lịch sử’ cần thiết cho ngữ hệ Tiên,” Tolkien viết trong Lời tựa đi kèm ấn bản lần thứ 2 (có trong sách này), nói về những trước tác rời rạc mà sau này con trai ông, Christopher Tolkien, sắp xếp và cho in lại sau khi ông mất dưới tên Huyền sử Silmaril. Nhận xét này còn có thể khái quát thêm: có được những sáng tác sau này là nhờ niềm say mê ngôn ngữ ông có từ thuở bé. Chưa đi học, cậu bé Tolkien đã được mẹ dạy tiếng La tinh, Pháp và Đức; đến trường, cậu học thêm tiếng Anh cổ và trung đại, tiếng Phần Lan, Goth, Hy Lạp, Ý, Na Uy cổ, Tây Ban Nha, Wales. Tốt nghiệp đại học ngành ngữ văn học, ông còn biết qua tiếng Đan Mạch, Hà Lan, Lombardy, Na Uy, Nga, Serbia, Thụy Điển và nhiều thứ tiếng cổ khác. Cảm hứng ngôn ngữ không dừng ở việc học: Tolkien trong độ tuổi thiếu niên cùng các bạn bè tự nghĩ ra ba ngôn ngữ nhân tạo, như một trò chơi. Đấy là mầm mống đầu tiên để sau này ông xây dựng các thứ tiếng khác rồi sẽ được sử dụng trong hệ truyền thuyết: ngôn ngữ cho Người Lùn, cho Orc, cho Con Người ở Trung Địa, phức tạp và hoàn chỉnh nhất là hai thứ tiếng Sindarin và Quenya - “ngữ hệ Tiên”. Từ ngữ hệ Tiên ra đời sự tích nòi giống Tiên, từ sự tích nòi giống Tiên ra đời cả hệ truyền thuyết với một lịch sử vũ trụ hoàn chỉnh: và khi chiếc nhẫn của Bilbo trong Anh chàng Hobbit rơi vào đó, Chúa tể những chiếc Nhẫn ra đời.
Chúa tể những chiếc Nhẫn được viết trong thời kỳ dạy học ở Oxford, từ năm 1937 đến 1949; nhưng những phác thảo đầu tiên về Arda đã bắt đầu từ 1917, khi ông đang dưỡng thương trong quá trình tham chiến ở Pháp. Buổi sáng thế từ Âm nhạc của các Ainur, những cuộc di cư lớn của người Tiên, chuyện tình giữa Beren và Lúthien, trận chiến quy mô vũ trụ giữa các Valar cùng người Tiên với Morgoth mà Sauron chỉ là một gã học trò, tất cả đã thành hình từ lâu trước khi lần đầu tiên ông nghĩ tới giống dân Hobbit: và câu chuyện về cuộc Nhẫn Chiến trở thành một nối tiếp tự nhiên, Kỷ Đệ Tam, theo sau những thời đại hoàng kim kia. Tolkien mong muốn tạo ra một sử thi không kém Beowulf hoặc Kalevala; những gì ông làm được có lẽ còn rộng hơn thế.
Trong bài giảng năm 1939 “Về truyện thần tiên”, Tolkien tranh luận về cái “thực” và “giả vờ” khi đến với cổ tích, phản kháng lại quan niệm của Andrew Lang cho chỉ trẻ con là đủ ngây thơ tin vào những thứ không tồn tại: “Điều xảy ra ở đây là người kể chuyện đã trở thành một đấng ‘tạo hóa con’. Người ấy tạo ra một Thế giới Thứ hai, mời gọi tâm trí ta bước vào. Khi đã vào bên trong thế giới ấy, tất cả những gì ông ta kể đều là ‘thực’: vì tất cả đều tuân theo luật lệ nội tại của thế giới ấy. Vì thế ta tin những điều ấy, chừng nào ta còn ở trong.” Đấy chính là điều Tolkien thực hiện làm với Chúa tể những chiếc Nhẫn, tuy không hẳn với tư cách “người kể chuyện”: nhại lại vai trò học giả ngoài đời thực của mình, ở đây Tolkien đóng vai “nhà nghiên cứu và dịch thuật”: Chúa tể những chiếc Nhẫn được coi là một bản văn cổ có thực mà ông bắt được, dịch ra tiếng Anh hiện đại, cung cấp các chú thích cùng những Phụ lục về văn hóa và lịch sử (xuất hiện ở cuối tập 3), cùng cả một lời thuyết minh rất dài (phần “Phi lộ” trong tập này), tương tự như những ấn bản chú thích về các trường ca trung đại ông thực hiện khi dạy ở đại học Leeds. Trái Đất chúng ta đang sống đây thuộc Kỷ Đệ Tứ, Tolkien cho biết, và vẫn còn mang theo dấu ấn những sự kiện xảy ra từ thời của Frodo và Aragorn.
Một phần quan trọng trong sự tiếp nối ấy là những cái tên. “Cha thích lịch sử, nó làm cha cảm động, nhưng những thời khắc đẹp đẽ nhất trong lịch sử với cha là khi nó rọi tỏ những từ ngữ và tên riêng!” ông viết cho Christopher năm 1958 (“Tolkien” cũng là một họ lạ: theo ông từ đó có gốc Đức và nghĩa là “có máu phiêu lưu liều lĩnh”, và ông cam đoan là trái ngược với bản tính Hobbit của mình). Từ nguyên là niềm hứng thú lâu năm của Tolkien, với những tri thức có được khi tham gia biên soạn từ điển Oxford English Dictionary và giảng dạy ngành nghiên cứu Anglo-Saxon. Phần lớn tên người/hobbit và địa danh trong Quận có vẻ là kết quả nhặt nhạnh những tên dòng họ hay làng xã thú vị khắp nước Anh; ông quả quyết từng cái tên đều có thực ngoài đời, và đưa ra lý giải từ nguyên cho chúng. Cũng vì thế mà các tên riêng trong hệ truyền thuyết dường như mô phỏng lại quá trình Bilbo/Frodo từ chốn an cư trong Quận đi ra thế giới bên ngoài (hoặc quá trình cậu bé Tolkien rời quê ngoại làng Sarehole ở Birmingham đi lên thành phố, đến với chiến tranh, bệnh tật, bom nổ): từ những cái tên “nôm na mách qué” bằng tiếng Anh hiện đại trong Quận, sang đến tiếng (và văn hóa) Anglo-Saxon của những Con Người sống ở các vương quốc Gondor, Rohan, sang đến tiếng người Tiên, Người Lùn, Mordor… hoàn toàn là những thứ tiếng do ông sáng tạo.
Trong bộ ba Chúa tể những chiếc Nhẫn của Peter Jackson xuất hiện những đoạn thoại dài bằng tiếng Sindarin, Quenya, Khuzdûl, Rohirric và cả tiếng Mordor vốn không có trong mọi ghi chép của Tolkien. “Renich i lú i erui govannem?” Arwen hỏi. Aragorn đáp lại: “Nauthannen i ned ôl reniannen.” (“Chàng còn nhớ lần đầu ta gặp mặt?” - “Ta tưởng mình bước lạc cõi mơ.”) Những đoạn thoại này viết riêng cho phim (và tương tự với Anh chàng Hobbit), người soạn là David Salo, tác giả cuốn Cửa ngõ vào Sindarin (2004). Ngoài David Salo và giới nghiên cứu, trong giới hâm mộ Tolkien phong trào “học tiếng Tiên” cũng lan rộng: người ta sáng tác bằng, và dịch thơ Tolkien sang, tiếng Sindarin và Quenya. Thế giới fantasy của Tolkien đã bắt rễ trong thực tại.
Như thế, Tolkien trở thành “cha đẻ của văn học fantasy hiện đại” (nhận định của Tom Shippey trong cuốn Tolkien: Tác giả thế kỷ 20, 2001) không chỉ vì ông đã tạo ra một quyển sách, mà vì ông đã tạo ra một thế giới: một thế giới hoàn chỉnh từ số không (hoặc từ Âm nhạc của các Ainur), có khởi thủy và tiến hóa, có lịch sử và địa lý (dựa theo miêu tả của Tolkien, Karen Wynn Fonstad đã vẽ ra hẳn một cuốn Át lát Trung Địa), có các hệ dân tộc và ngôn ngữ khác nhau. Nhưng sáng tạo toàn diện ấy mang lại niềm vui và kho tư liệu vô tận cho người hâm mộ và giới nghiên cứu bao nhiêu, thì lại là thách thức đối với giới dịch thuật bấy nhiêu.
Con số không chính thức trên trang Elrond’s Library vào tháng 12/2012 thống kê được 61 bản dịch tại 56 quốc gia của cả Anh chàng Hobbit và Chúa tể những chiếc Nhẫn; kỷ lục trong đó là tiếng Nga với 9 bản dịch (mức độ hoàn chỉnh và chất lượng khác nhau). Sinh thời Tolkien đã chứng kiến sự ra mắt của 7 bản dịch trọn vẹn; bản thân là nhà ngữ văn học, nhà phê bình cùng dịch thuật, ông lại trở thành nhà phê bình dịch khắt khe: bản tiếng Hà Lan và Thụy Điển bị ông chỉ trích nặng nề, sau một thời gian dài trao đổi thư từ với hai dịch giả bất thành! Ông đặc biệt phản đối việc dịch nhân danh địa danh, coi đó là “chuyện bất khả”: “Cách xử lý tốt nhất với bản đồ đầu tiên là dịch tiêu đề thành Một phần ‘The Shire’ và để yên đó. … Tôi xin nói ngay rằng tôi sẽ không chấp thuận bất kỳ phá phách tương tự nào đối với hệ thống nhân danh. … Thực sự tôi rất tức giận.” (Thư gửi Rayner Unwin năm 1956). Lý luận của Tolkien: bởi các tên người và địa danh trong sách đều là tên có thật, và thuộc một hệ thống tỉ mỉ, nên không thể dịch ra mà không phá vỡ “không khí Anh”. Quả thật, Tolkien lo lắng vậy là tất yếu, vì làm sao khôi phục được trong một ngôn ngữ khác, quan hệ phức tạp của “Ngôn Ngữ Chung ở Trung Địa”/tiếng Anh hiện đại với tiếng của Tiên-Người Lùn-các tộc Người-Mordor/tiếng Anglo-Saxon-Na Uy cổ-Wales-Do Thái… với bao nhiêu vay mượn, ảnh hưởng, bản địa hóa và biến âm? Cùng với rất nhiều cách chơi chữ cực kỳ sáng tạo khi Tolkien “dịch” từ “Ngôn Ngữ Chung” sang tiếng Anh hiện đại? Cộng thêm vào chuyện ngay những tên tiếng Anh Tolkien sử dụng hầu hết đều có từ nguyên rắc rối, trong khi những người dịch ở các quốc gia, tất nhiên, không phải ai cũng là chuyên gia tiếng Anh cổ. Các bản dịch đầu tiên đều vấp váp nhiều ở phần tên riêng, chưa kể nhiều trích dẫn và thơ ca có vẻ “kỳ bí” trong văn bản Chúa tể những chiếc Nhẫn: 11 bản dịch đã ra đời trước năm 1977, khi Huyền sử Silmaril được in[2].
[1] Mặc dù do yêu cầu thực tiễn mà Chúa tể những chiếc Nhẫn in làm ba tập trong lần đầu ra mắt cũng như thành truyền thống về sau, Tolkien chỉ coi đây là một cuốn sách duy nhất, chia làm sáu Quyển. Sau này các ấn bản kỷ niệm cũng thường in gộp làm một.
[2] Những ai quan tâm về dịch thuật Tolkien có thể đọc chuyên đề Tolkien in Translation do Thomas Honegger chủ biên, NXB Walking Trees 2011.