Chào các bạn,
Mục đích của bài viết này chính là hướng dẫn cách chỉnh hình chính xác bằng một cách có kỹ thuật. Mục tiêu của việc chỉnh hình ở đây là giúp các bạn đạt được một màn hình có màu sắc trung thực, thể hiện được tiết rõ ràng cho những cảnh tối (“shadow details”) và đưa lên được sự nỗi bật trong những cảnh sáng (“3D-pop”). Thực ra, chỉ điều chỉnh căn bản thôi thì hơi khó đạt được ba điều này một cách hoàn hảo. Nhưng mình có quyền hy vọng, đúng không?
Bài viết này được chia làm hai phần chính. Phần đầu giải thích về các nút điều chỉnh căn bản và những tài liệu liên quan. Phần hai, đương nhiên, sẽ thực xự hướng dẫn cách điều chỉnh các nút này và hình ảnh nói chung. Có thể sẽ có phần ba. Đó là khi mọi người bắt đầu hỏi lung tung về phần hai mà không chịu xem kỷ phần một trước. Hoặc là, sẽ không có phần ba, vì chẳng ai đọc phần một lẫn phần hai cả (buồn).
Để các bạn khỏi thắc mắc, tôi xin đưa trước vài hình ảnh mà các bạn sẽ dùng để chỉnh hình. Đừng vội 'bị áp đảo' khi mới nhìn vào những hình này. ‘Phẩu thuật’ của chúng mình sẽ rất là đơn giản. Trong những hình này, hoặc đúng hơn là ‘video clips’ này, sẽ có những gạch thẳng hoặc ô vuông mà chúng nó chớp lên và chớp xuống. Tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách chỉnh chỉ vài nút điều khiển thôi là chúng sẽ hết chớp - và như vậy là mình đã thành công. (Xài mấy hình này sướng lắm.)
1 CÁC NÚT ĐIỀU CHỈNH VÀ TÀI LIỆU CĂN BẢN:
Trong phần này tôi xin giải thích về chức năng của các nút điều chỉnh căn bản. Tôi sẽ cố gắng, không phải dịch, mà là định nghĩa chức năng của những nút điều khiển (và các danh từ chuyên môn) mà các bạn thường thấy ở trên cái menu. Những tài liệu phụ trợ liên quan trực tiếp đến những nút này sẽ được lồng theo khi thích hợp để các bạn dễ hiểu. Tùy lúc, tôi sẽ bổ túc thêm những điều cần biết.
1.1 Các nút điều chỉnh căn bản:
Các nút điều chỉnh căn bản là “Contrast” (có khi gọi là “Picture”), “Brightness”, “Color” và “Tint” (có khi gọi là “Hue”). Nút “Sharpness” cũng là một nút căn bản nhưng mà, phải nói trước, tôi không biết cách chỉnh nó một cách chính xác là như thế nào. Như đã nói, để chỉnh hình chính xác mình sẽ nhờ vào các dụng cụ gọi là hình thí nghiệm (“test patterns”) và một tấm phim lọc màu xanh dương ("Blue filter", khoang hãy lo, mình sẽ tính).
1.1.1 Contrast (hoặc Picture):
Đây là nút điều chỉnh nồng độ ánh sáng ở nồng độ cao. Nói một cách khác thì nó dùng để chỉnh White Level (sẽ có giải thích thêm).
1.1.2 Brightness:
Đây là nút điều chỉnh nồng độ ánh sáng ở nồng độ thấp. Nói một cách khác thì nó dùng để chỉnh Black Level.
Một ví dụ đơn giản là tấm ảnh chụp một cái bàn giấy trong một thư phòng. Trên trần trên đầu bàn giấy có một ngọn đèn nên đồ 'tứ bảo' trên bàn nhìn rất là sáng (cần dịch 'tứ bảo' không?). Bốn chân bàn thì bị mặt bàn che đi nên rất là tối. Lúc bạn chỉnh Contrast thì ánh sáng của 'tứ bảo' sẽ thay đổi lên hay xuống theo mức độ bạn chỉnh. Nhưng ảnh hưởng của nó đối với khu vực tối dưới bàn thì chỉ có một chút. Ngược lại, lúc bạn chỉnh Brightness thì độ ánh sáng của chân bàn sẽ thay đổi, từ từ sáng lên hoặc tối xuống rồi đen luôn. Tương tự, ảnh hưởng của nó đối với 'tứ bảo' ở trên bàn thì rất là ít, hoặc là không có. Để chỉnh Contrast và Brightness một cách chính xác thì các bạn sẽ xài các "test patterns" (đừng lo, mình vẫn còn ở đây).
1.1.3 Color:
Đây là nút điều chỉnh trọng lượng màu đỏ khi hòa màu.
1.1.4 Tint (hoặc Hue):
Đây là nút điều chỉnh trọng lượng màu xanh lục khi hòa màu.
Để giải thích về hòa màu cũng như vai trò của Color và Tint thì tôi xin hỏi các bạn là TV của bạn phát ra bao nhiêu màu? Nếu các bạn trả lời là vài triệu màu thì, xin lỗi, các bạn sai rất là xa - xa cũng cở vài triệu lần. TV chỉ phát ra ba màu chính ("primary colors"), đó là đỏ, xanh lục và xanh dương (Red, Green và Blue) và ba màu này sẽ được phát ra ở nhiều cường độ khác nhau. Tùy theo cường độ cao hay thấp của ba màu này được phát ra cùng một lúc như thế nào mà con mắt các bạn sẽ cảm nhận ra hàng triệu màu khác nhau. Đây, chính là hòa màu.
Cho một vài ví dụ, màu trắng là do chúng (cả ba màu R,G,B) được phát ra cùng một lúc ở một cường độ bằng nhau. Màu trắng toát (trắng tối đa) là do chúng được phát ra ở mức độ tối đa. Màu trắng lợt (hay là màu xám) là do chúng được phát ra ở mức độ thấp. Màu vàng là do hai phần đều nhau của màu đỏ và xanh lục hòa lại mà màu xanh dương không có trong này.
Nếu màu trắng của bạn hơi hường thì đó là do màu đỏ được hòa hơi nhiều. Color cần được chỉnh xuống. Đó là giảm trọng lượng của nó đi. Nếu màu trắng hơi xanh hoặc màu cỏ sân banh nhìn giống như đèn neon thì Tint phải bớt xuống và vv...
Để chỉnh Color và Tint một cách chính xác thì các bạn sẽ xài các "test patterns" và một "blue filter”. Nếu TV của bạn có chức năng "Blue Mode" thì bạn không cần cái "blue filter”. Lúc bạn chỉnh Color và Tint thì bật nó ON. Xong rồi thì bật nó OFF trước khi chỉnh cái khác (còn phải nói).
1.1.5 Sharpness:
Cái này dùng để chỉnh nét hoăc độ rõ. Ai cũng thích bức hình rõ nét - tăng nó lên - nhưng mà đừng lạm dụng nó quá. Nếu không thì các cô gái đôi tám nhìn không có láng như vậy nữa đâu. Ngược lại, nếu chỉnh thấp quá thì các cụ nhà ta lại nhìn rất trơn (lắc đầu). Cũng sẽ có các "test patterns" để giúp các bạn điều chỉnh phần này.
1.2 Tài liệu bổ túc:
Trước khi đi vào phần chính - chỉnh hình căn bản - thì có vài điều cần được bổ túc thêm. Quan trọng hơn, còn nhiều nút khác bạn phải chỉnh trước (chóng mặt quá). May mắn một điều là các bạn chỉ cần chỉnh các nút này một lần rồi rất hiếm khi phải lập lại. Thực ra, phần này cũng đã có thể làm phần mở đầu của phần II.
1.2.1 Video mode:
Mỗi hãng có một tên gọi khác nhau cho cái nút này. Thường thường bạn sẽ thấy những lựa chọn như là: Game, Sports, Dynamic, Vivid, THX, Home Theater (HT) 1/2/3, Movies 1/2/3, Cinema 1/2/3, Standard, User 1/2/3 và nhiều từ tương tự.
Game mode sẽ sáng và hình không bị hoãn lại sau âm thanh (“video lag”), dành cho những người chơi video games. Sports và Dynamic modes thì sáng chói, đại khái thích hợp cho những nơi công cộng (ví dụ, quán cafe). Vivid thì rất là rực rở. Tất cả các modes này màu sắc đều trật lất, bạn không nên dùng, đặc biệt là để coi phim.
THX, HT, Movie hoặc Cinema 1 có ánh sáng yếu nhất nhưng mà màu sắc trung thực nhất và đây chính là cái mode bạn cần chọn. Đồng thời, cái mode này sẽ cho phép các bạn thích phiêu lưu vào sâu trong những advanced menus khác nữa để điều chỉnh thêm.
THX, HT, Movies hoặc Cinema 2/3, nếu có, thì cũng tương tự như là HT, Movie hoặc Cinema 1. Nhưng mà đôi khi, chúng sẽ có một cái gì đó mà nhà sản xuất làm hơi quá đáng. Tôi nghĩ không nên dùng.
Standard hoặc User 1/2/3 cho bạn sự cân bằng giữa Sports/Dynamic và HT/Movies/Cinema. Nó có ánh sáng tương đối cao và màu sắc cũng khá.
1.2.2 Video level (hoặc Black Level):
Cái này dung để chọn một trong hai hệ số của màu sắc. Nhưng mà mỗi hãng lại xài một cặp tên khác nhau, như là Normal/Expanded, hoặc là Video/PC, hoặc là 7.5IRE/0IRE và gì nữa. Đúng lý ra giá trị của mỗi màu sắc (R,G,B) phải đi từ 0 đến 255 (đủ cho 1 byte). Nhưng mà các ông Hollywood lại chỉ xài từ 17 đến 235. Hai phần đầu và đuôi mấy ỗng dự định xài cho việc gì khác hổng biết, đến bây giờ cũng chưa xài. Nói cho vui, 0-16 được gọi là "Blacker Than Black" (BTB=đen hơn là đen) và 236-255 được gọi là, bạn thực thông minh, "Whiter Than White" (WTW=trắng hơn là trắng).
Tất cả các hệ thống, máy móc thâu hình và phát hình số (digital) đều xài 17-235. Duy nhất là computers vẫn còn xài 0-255. Do đó, 99% thời gian bạn sẽ chọn 17-235, tức là Normal/Video/7.5IRE. Đương nhiên, lúc bạn xài TV thế cho màn hình computer, thì phải chọn 0-255, hoặc Expanded/PC/0IRE. Còn một trường hợp nữa (mệt quá), nếu bạn xài HTPC để coi phim thì chọn cái gì? Xin trả lời: "Ngọ hổng biết nữa, ngọ hổng xài HTPC".
1.2.3 Color Temperature:
Nói một cách nôm na, đây là danh từ dùng để diển tả cái tông ("tone") của màu sắc, ấm hay mát ("warm" hay "cool"). Đơn vị của nó là độ Kevin. Các sự chọn lựa sẽ là 5500K/6500K/7500K hoặc warm/medium/cool. Theo tiêu chuẩn thâu hình và phát hình, màu ở 6500K là màu bình hòa (không có nóng lạnh, tốt!) và là màu trắng. Lên cao hơn 6500K thì màu bắt đầu nghiêng về hướng xanh dương (mát, "cool")... và làm cho bạn có cảm tưởng là nó sáng hơn một chút. Thấp hơn 6500K thì màu bắt đầu nghiêng về hướng của màu vàng rồi đỏ (ấm, "warm"). Các bạn muốn chọn 6500K để có màu sắc trung thực, đúng không? Thế thì nên chọn "warm" hoặc là 5500K. Thưa vâng, chọn 5500K vì khi các bạn chọn 5500K các nhà sản xuất sẽ giúp bạn thế vào 6500K. Bạn chọn 6500K họ sẽ thế vào 7500K, vv. Lý do, tôi nghĩ, là nằm ở phần cuối của câu thứ năm của đoạn văn này (ngay phía sau ba dấu chấm đấy, thấy chưa?). Đùa thôi, lý do rất đơn giản là tại vì không có TV nào mà chính xác 100% cả!
1.2.4 Back Light:
Đây là một con số dùng để điều chỉnh cường độ của các ngọn đèn LED's nếu TV của bạn là LCD. Nếu TV là plasma thì nó là "low" hay "high" hoặc là không có. Nếu bạn chơi projectors (từ đây về sau sẽ viết tắt là FP cho “front projector”) thì họ xài danh từ Bulb Mode hoặc tương tự.
Tôi xin nói riêng về FPs trước. Tại vì giá thành của bóng đèn hơi mắc (có gì thì mình xin lỗi, đã xúc phạm), trong thời gian đầu bạn nên chọn Bulb Mode ở "Low" (hoặc "ECON"). Sau 1000 đến 1500 giờ, khi ánh sáng đã giãm xuống thì các bạn chuyển qua "High" (hoặc "NORMAL"). Làm như vậy bóng đèn sẽ thọ lâu hơn và ánh sáng mà bạn có được, nói chung, sẽ đều hơn từ đầu đến cuối. Xin bổ túc, ánh sáng khác biệt giữa "Low" và "High" chỉ khoảng 20%.
Còn về LCD TVs thì các bạn có thể để Back Light ở cao hơn một chút ngay từ đầu cũng không sao. Bóng đèn LED thọ rất dài. Thường thường những thứ khác trong TV của bạn sẽ đứt bóng trước.
1.2.5 Gamma:
Đây là một con số mũ ở trong phương trình biểu diển đường cong Gamma Curve. Đường cong Gamma Curve xác định mức độ thay đổi từng bước của ánh sáng từ đen đến trắng 100%. Con số được nhiều người chấp nhận nhất là 2,2. Có một số rất ít thì thích 2,4.
Gamma cao (hơn 2,2) thì mức độ thay đổi của ánh sáng từ đen đến trắng ~30% hơi chậm và từ trắng ~30% đến trắng 100% thì rất là nhanh. Cái lợi của nó là những hình ảnh sáng sẽ rất nổi bật ("3D pop"). Ngược lại, những hình ảnh tối thì có thể sẽ bị giảm đi chi tiết.
Gamma thấp (dưới 2,2) thì mức độ thay đổi của ánh sáng từ đen đến trắng ~30% hơi nhanh và từ trắng ~30% đến trắng 100% thì hơi chậm. Cái lợi của nó là những hình ảnh tối thì sẽ có chi tiết rỏ ràng hơn ("shadow details"). Ngược laị, những hình ảnh sáng thì sẽ bị giảm đi sự nổi bật.
Để đo Gamma mình sẽ phải dùng "test patterns" cùng với một máy đo, cái mà mình không có. Cho nên, tôi khuyên các bạn nên để nó ở vị trí trung bình, tức là "2,2" hoăc "0" hoặc "Normal".
1.2.6 Linh Tinh:
Nhóm này bao gồm những chức năng đặc biệt như là Iris (nhiều TVs, FPs), OPC (Sharp LCD TV), Motion Enhancement (ví dụ, 240/480/600Hz), Active Contrast (Sharp LCD TV), Briliant Colors (Benq FP), Quad Color (Sharp LCD TV), Black Frame Insertion (Sony FP), NR (Noise Reduction, mọi TV), Edge Enhancement (nhiều TVs, FP, DVD/BD players), vv và vv.
Theo tôi nghỉ, các bạn nên tắt ("turn off" hoặc "disable") những chức năng này. Chính tôi không xài một cái nào cả. Chúng đúng là linh tinh (dị giới?). Một ngoại lệ là JVC FP, xài Iris sẽ giúp tạo ra một màu đen rất là đen và hình không bị "giựt" như những FPs hay TVs khác khi dùng nó. Nhưng nếu phòng bạn có một chút ánh sáng nào thôi thì nó trở thành vô dụng. Nếu các bạn thích quậy ("tweak") thì có thể trở lại nhóm Linh Tinh này sau khi đã làm xong phần điều chỉnh căn bản.
2 ĐIỀU CHỈNH HÌNH CĂN BẢN:
2.1 Download dĩa hoăc hình thí nghiệm:
Trước hết thì bạn đi thu thập các hình thí nghiệm (“test patterns”). Có thể các bạn đã thấy cái link này rồi: AVS HD 709. Họ cho bạn 3 dạng file:
HDMV (.exe) hay HDMV (.7z): đây là một iso file dùng để 'burn' vào dĩa Blu-ray (BD-RE hay BD-R). Tôi nghỉ mình không cần phải phí dĩa Blu-ray như vậy đâu.
AVCHD (.exe) hay AVCHD (.7z): đây là một iso file dùng để 'burn' vào dĩa DVD (chơi được trong hầu hết các Blu-ray players nhưng chơi không được trong DVD players!). Bạn có thể chọn giải pháp này.
MP4 (.exe) hay MP4 (.7z): đây là những files có thể chơi được trong MPEG-4 AVC hoặc H.264 video players hoặc trong chính cái TV. Nếu TV của bạn có USB input và chơi được file dạng này thì đây là lựa chọn hay nhất. PATTERNS MANUAL (.pdf) là cuốn ‘manual’ của nó nếu bạn muốn thử trình độ tiếng Anh của mình.
Nguyên bộ files nầy thì quá dư cho bạn xài. Để chỉnh hình căn bản, bạn chỉ cần 5 MP4 files sau đây (nếu xài dĩa thì bạn chơi những chapters có hình tương tự trong phần “Basic Settings”):
• Contrast: “.\Basic Settings\3-White Clipping.mp4
• Brightness: “.\Basic Settings\1-Black Clipping.mp4”
• Contrast và Brightness chung một lúc: “.\Basic Settings\2-APL Clipping.mp4”
• Color và Tint chung một lúc: “.\Basic Settings\4-Flashing Color Bars.mp4”
• Sharpness: “.\Basic Settings\5-Sharpness & Overscan.mp4”
2.2 Mua phim lọc màu xanh dương:
Kế tiếp thì mình đi thu thập tấm phim lọc màu xanh dương ("Blue filter") dùng để chỉnh Color và Tint. Bạn nhớ tôi từng nói: "khoang hãy lo, mình sẽ tính" không? Bây giờ thì lo được rồi đó. Tôi cũng không biết ở Việt Nam kiếm đâu ra nữa! Đừng giận (I am very sorry!). Để xem xem, trong hộp của vài movies của Sony/Disney có phim lọc này. Mới nhất đây là War of the World cũng có. Hai dĩa dùng để chỉnh hình mà được để bán trên thị trường là DVE (Digital Video Essential) và S&M (Spears and Munsil) cũng có. Những tiệm bán đồ cho mấy ban nhạc DJ để bắt đèn màu có thể cũng có. Tiệm bán hàng camera chuyên nghiệp có thể có. Ở những tiệm này bạn phải hỏi cái "Lee Filters" số #71. Đây mới đúng là màu “blue” mà bạn muốn. Tôi còn dư vài tấm từ những dĩa này, nhưng mà không biết sẽ gởi tặng ai đây (khó xử quá)? Hay là vậy đi, các bạn tự giúp nhau. Nếu bạn nào tìm được nguồn mua cái phim lọc này thì thông báo cho mọi người khác biết?
2.3 Chuẩn bị điều chỉnh căn bản:
Trước khi bắc đầu, tôi xin khuyên cáo các bạn hãy vào menu và ghi xuống tất cả các số và mấy cái chọn lựa mà có sẵn trong đó. Nếu có gì trục trặc các bạn có thể quay ngược lại. Đăc biệt là bạn nào đã mướn chuyên gia để chỉnh hình cho TV/PJ của bạn, bạn phải tự chịu trách nhiệm về việc này.
Kế tiếp, các bạn phải thưc hiện theo phần "1.2 Tài liệu bổ túc". Các bạn phài làm hết từ 1.2.1 đến 1.2.6. Xong rồi những nút căn bản thì các bạn chỉnh thành "0" hoặc trung bình (trong nhiều TV con số trung bình có thể là "50" chẳng hạn).
2.4 Điều chỉnh căn bản:
Cuối cùng rồi cũng vào đề. Phần này thật bất ngờ là rất ngắn và rất dễ. Tôi nghỉ khó nhât là kím cho được tấm hình lọc (I am very sorry, again).
2.4.1 Contrast: mởi lên file “.\Basic Settings\3-White Clipping.mp4”.
Trước hết bạn sẽ chỉnh Contrast xuống thấp thật thấp để có thể thấy được mọi đường gạch từ 230-253 đều chớp. Sau đó chỉnh nó lên từ từ để những đường gạch 230-235 vẫn còn chớp và 236 trở lên thì hết chớp. Nồng độ ánh sáng của gạch 235 ở đây chính là ‘White Level’ của bạn. Trong lúc bạn coi TV bình thường, màu trắng sáng nhất mà TV của bạn sẽ phát ra là màu trắng ở số 235 này.
Đối với những bạn xài FP (hoăc TV hơi cũ) thì phần điều chỉnh Contrast đến đây là xong. Nếu bạn chỉnh nó lên nữa thí nó sẽ bị mất đi cái “3D-pop”. Đương nhiên, nếu bóng đèn của bạn đã cũ rồi thì phài hy sinh “3D-pop” một chút và tăng Contrast lên một chút.
Những bạn xài TV thì phần cần chú ý vấn đề ngược lại. TV thời này sáng lắm. Một phần nữa là do kỷ thuật ‘quái chiêu’ của LCD TVs, bạn có thể chỉnh Contrast lên maximum mà mọi đường gạch vẫn còn chớp. Nếu bạn để vậy để coi phim thì hình ảnh có thể sẽ bị chói (quá sáng). Cho nên bạn có thể tùy hỷ mà chỉnh nó xuống để cho lúc coi phim/TV bình thường thí hình ảnh vẫn còn sáng nhưng không đến mức độ chói mắt.
2.4.2 Brightness: mởi lên file “.\Basic Settings\1-Black Clipping.mp4”.
Bạn sẽ chỉnh Brightness lên hoặc xuống cho đến khi những đường gạch 17 trở lên vẫn còn chớp và gạch 16 hết chớp. Gạch 16 lúc này sẽ là ‘Black Level’ của bạn. Nó có nghĩa là trong lúc bạn coi TV bình thường, màu đen nhất mà TV của bạn sẽ phát ra là màu đen ở số 16 này.
Cần chú ý là môi trường xung quanh sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến Black Level. Bạn nên ngồi vào ghế lúc coi TV bình thường để chỉnh cái này (ý nói là đừng ‘dán' mắt vào màng ảnh). Đồng thời, bạn nên chỉnh nó cho cả ban ngày và ban đêm (hoăc là lúc sáng và lúc tối). Xong rồi tùy lúc nào mà bạn coi TV thì đổi nó qua hoăc đổi nó lại.
File “.\Basic Settings\ 2-APL Clipping.mp4” là ‘gộp’ chung của hai files trên. Bạn có thể dùng nó để chỉnh Contrast và Brightness cùng một lúc. Xin nhắc lại là Back Light (phần 1.2.4) có ảnh hưởng trực tiếp đến ánh sáng của màn ảnh. Nếu bạn chỉnh Back Light thì phải quay lại chỉnh hai cái Contrast và Brightness này.
2.4.3 Color và Tint: mởi lên file “.\Basic Settings\4-Flashing Color Bars.mp4”.
Trong file này, bốn cái ô ở dưới những chữ “Color” và “Tint” sẽ chớp. Nếu TV/FP của bạn có “Blue Mode” thì đây là lúc bật nó lên. Còn không thì bạn phải xài cái phim lọc màu xanh dương (kím nhanh thật!). Nếu xài phim lọc thì che nó lên mắt của bạn giống như đang mang kiếng.
Trước hết bạn sẽ chỉnh Color cho đến khi hai ô bên ngoài (hai ô dưới chữ ‘Color’) hết chớp hoăc chớp ở mức tối thiểu. Kế tiếp bạn chỉnh Tint cho đến khi hai ô bên trong (hai ô dưới chữ gì nhỉ?) hết chớp hoăc cũng chớp ở mức tối thiểu. Xong rồi bạn quay qua quay lại giữa Color và Tint cho đến cả bốn ô chỉ chớp ở mức độ ít nhất và đều nhất. Nếu chúng không chớp thì bạn rất là may mắn. (Hầu như 100% là bạn phái thưc hiện “Advanced Calibration” (dịch là “Điều Chỉnh Tiên Tiến”?) để cho 4 ô đều hết chớp).
2.4.4 Sharpness: mởi lên file “.\Basic Settings\5-Sharpness & Overscan.mp4”.
Để chỉnh cái này bạn phải cần có mỹ thuật chứ không phải kỹ thuật nữa. Theo tôi nghĩ, dễ nhất thì bạn chú ý vào cái đường cong hơi giống chử “L” (nó bắt đầu bên cạnh câu “Gray area...”, đi thẳng xuống rồi cong qua bên phải). Trong lúc nhìn vào cái chử “L” này, bạn tăng Sharpness lên hết ga rồi hạ nó xuống thấp hết ga. Lúc Sharpness cao quá thì sẽ thấy khúc đường cong của chữ “L” có “răng cưa” (hay còn gọi là “staircase effect”). Lúc Sharpness thấp quá thì bạn sẽ thấy bức hình bị nhòa đi. Ban cứ tiếp tục chỉnh lên và xuống. Có một lúc bạn thấy chử “L” vừa rỏ nét và vừa mướt nhất. Đây là lúc bạn nên dừng lại và chọn độ chỉnh này. Trong lúc coi phim bạn cũng có thể quay lại để chỉnh cái nút này theo sở thích.
Tóm lại, chỉnh hình cần có cả kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Sau khi chỉnh bằng kỹ thuật xong thì bạn quay qua coi phim hoặc những tài liệu mà bạn thích để duyệt lại. Nếu màn hình hơi trắng quá, tối quá, xanh quá, đỏ quá, lợt quá, v.v. thì bạn quay lại chỉnh những nút căn bản này một chút. Một điều cần chú ý là nếu trước đây bạn từng xài Vivid mode chẳng hạn (phần 1.2.1 Video Mode), bây giờ đổi qua Cinema mode bạn có thể thấy là bức hình hơi nhạt nhẽo. Bạn nên dành vài ngày để làm quen với bức hình mới. Nếu không làm quen được thì còi như phần điều chỉnh Color và Tint là không hợp với sở thích của bạn. Phần điều chỉnh Contrast và Brightness thì tôi nghĩ đều có thể áp dụng được cho mọi người.
Bài này tôi đã tự viết trong ngôn ngữ của tôi với sự hiểu biết vả kinh nghiệm mà tôi đã thu lượm đươc trong nhiều năm qua chứ không phải dich lại từ môt nguồn nào khác. Đương nhiên nó sẽ có nhưng câu không đươc mạch lạc lắm hoặc ý tứ không được rỏ ràng. Nếu các bạn có thắc mắc xin cứ hỏi. Nếu các bạn khác có thể trả lời những câu hỏi này trong khi tôi không có ở đây thì vui lòng giúp dùm một tay. Trong vấn đề download "test patterns" và mua phim lọc xin các bạn cũng vui lòng giúp đỡ lẫn nhau.
Chúc các bạn có được một màn hình thật đẹp...
Mục đích của bài viết này chính là hướng dẫn cách chỉnh hình chính xác bằng một cách có kỹ thuật. Mục tiêu của việc chỉnh hình ở đây là giúp các bạn đạt được một màn hình có màu sắc trung thực, thể hiện được tiết rõ ràng cho những cảnh tối (“shadow details”) và đưa lên được sự nỗi bật trong những cảnh sáng (“3D-pop”). Thực ra, chỉ điều chỉnh căn bản thôi thì hơi khó đạt được ba điều này một cách hoàn hảo. Nhưng mình có quyền hy vọng, đúng không?
Bài viết này được chia làm hai phần chính. Phần đầu giải thích về các nút điều chỉnh căn bản và những tài liệu liên quan. Phần hai, đương nhiên, sẽ thực xự hướng dẫn cách điều chỉnh các nút này và hình ảnh nói chung. Có thể sẽ có phần ba. Đó là khi mọi người bắt đầu hỏi lung tung về phần hai mà không chịu xem kỷ phần một trước. Hoặc là, sẽ không có phần ba, vì chẳng ai đọc phần một lẫn phần hai cả (buồn).
Để các bạn khỏi thắc mắc, tôi xin đưa trước vài hình ảnh mà các bạn sẽ dùng để chỉnh hình. Đừng vội 'bị áp đảo' khi mới nhìn vào những hình này. ‘Phẩu thuật’ của chúng mình sẽ rất là đơn giản. Trong những hình này, hoặc đúng hơn là ‘video clips’ này, sẽ có những gạch thẳng hoặc ô vuông mà chúng nó chớp lên và chớp xuống. Tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách chỉnh chỉ vài nút điều khiển thôi là chúng sẽ hết chớp - và như vậy là mình đã thành công. (Xài mấy hình này sướng lắm.)


1 CÁC NÚT ĐIỀU CHỈNH VÀ TÀI LIỆU CĂN BẢN:
Trong phần này tôi xin giải thích về chức năng của các nút điều chỉnh căn bản. Tôi sẽ cố gắng, không phải dịch, mà là định nghĩa chức năng của những nút điều khiển (và các danh từ chuyên môn) mà các bạn thường thấy ở trên cái menu. Những tài liệu phụ trợ liên quan trực tiếp đến những nút này sẽ được lồng theo khi thích hợp để các bạn dễ hiểu. Tùy lúc, tôi sẽ bổ túc thêm những điều cần biết.
1.1 Các nút điều chỉnh căn bản:
Các nút điều chỉnh căn bản là “Contrast” (có khi gọi là “Picture”), “Brightness”, “Color” và “Tint” (có khi gọi là “Hue”). Nút “Sharpness” cũng là một nút căn bản nhưng mà, phải nói trước, tôi không biết cách chỉnh nó một cách chính xác là như thế nào. Như đã nói, để chỉnh hình chính xác mình sẽ nhờ vào các dụng cụ gọi là hình thí nghiệm (“test patterns”) và một tấm phim lọc màu xanh dương ("Blue filter", khoang hãy lo, mình sẽ tính).
1.1.1 Contrast (hoặc Picture):
Đây là nút điều chỉnh nồng độ ánh sáng ở nồng độ cao. Nói một cách khác thì nó dùng để chỉnh White Level (sẽ có giải thích thêm).
1.1.2 Brightness:
Đây là nút điều chỉnh nồng độ ánh sáng ở nồng độ thấp. Nói một cách khác thì nó dùng để chỉnh Black Level.
Một ví dụ đơn giản là tấm ảnh chụp một cái bàn giấy trong một thư phòng. Trên trần trên đầu bàn giấy có một ngọn đèn nên đồ 'tứ bảo' trên bàn nhìn rất là sáng (cần dịch 'tứ bảo' không?). Bốn chân bàn thì bị mặt bàn che đi nên rất là tối. Lúc bạn chỉnh Contrast thì ánh sáng của 'tứ bảo' sẽ thay đổi lên hay xuống theo mức độ bạn chỉnh. Nhưng ảnh hưởng của nó đối với khu vực tối dưới bàn thì chỉ có một chút. Ngược lại, lúc bạn chỉnh Brightness thì độ ánh sáng của chân bàn sẽ thay đổi, từ từ sáng lên hoặc tối xuống rồi đen luôn. Tương tự, ảnh hưởng của nó đối với 'tứ bảo' ở trên bàn thì rất là ít, hoặc là không có. Để chỉnh Contrast và Brightness một cách chính xác thì các bạn sẽ xài các "test patterns" (đừng lo, mình vẫn còn ở đây).
1.1.3 Color:
Đây là nút điều chỉnh trọng lượng màu đỏ khi hòa màu.
1.1.4 Tint (hoặc Hue):
Đây là nút điều chỉnh trọng lượng màu xanh lục khi hòa màu.
Để giải thích về hòa màu cũng như vai trò của Color và Tint thì tôi xin hỏi các bạn là TV của bạn phát ra bao nhiêu màu? Nếu các bạn trả lời là vài triệu màu thì, xin lỗi, các bạn sai rất là xa - xa cũng cở vài triệu lần. TV chỉ phát ra ba màu chính ("primary colors"), đó là đỏ, xanh lục và xanh dương (Red, Green và Blue) và ba màu này sẽ được phát ra ở nhiều cường độ khác nhau. Tùy theo cường độ cao hay thấp của ba màu này được phát ra cùng một lúc như thế nào mà con mắt các bạn sẽ cảm nhận ra hàng triệu màu khác nhau. Đây, chính là hòa màu.
Cho một vài ví dụ, màu trắng là do chúng (cả ba màu R,G,B) được phát ra cùng một lúc ở một cường độ bằng nhau. Màu trắng toát (trắng tối đa) là do chúng được phát ra ở mức độ tối đa. Màu trắng lợt (hay là màu xám) là do chúng được phát ra ở mức độ thấp. Màu vàng là do hai phần đều nhau của màu đỏ và xanh lục hòa lại mà màu xanh dương không có trong này.
Nếu màu trắng của bạn hơi hường thì đó là do màu đỏ được hòa hơi nhiều. Color cần được chỉnh xuống. Đó là giảm trọng lượng của nó đi. Nếu màu trắng hơi xanh hoặc màu cỏ sân banh nhìn giống như đèn neon thì Tint phải bớt xuống và vv...
Để chỉnh Color và Tint một cách chính xác thì các bạn sẽ xài các "test patterns" và một "blue filter”. Nếu TV của bạn có chức năng "Blue Mode" thì bạn không cần cái "blue filter”. Lúc bạn chỉnh Color và Tint thì bật nó ON. Xong rồi thì bật nó OFF trước khi chỉnh cái khác (còn phải nói).
1.1.5 Sharpness:
Cái này dùng để chỉnh nét hoăc độ rõ. Ai cũng thích bức hình rõ nét - tăng nó lên - nhưng mà đừng lạm dụng nó quá. Nếu không thì các cô gái đôi tám nhìn không có láng như vậy nữa đâu. Ngược lại, nếu chỉnh thấp quá thì các cụ nhà ta lại nhìn rất trơn (lắc đầu). Cũng sẽ có các "test patterns" để giúp các bạn điều chỉnh phần này.
1.2 Tài liệu bổ túc:
Trước khi đi vào phần chính - chỉnh hình căn bản - thì có vài điều cần được bổ túc thêm. Quan trọng hơn, còn nhiều nút khác bạn phải chỉnh trước (chóng mặt quá). May mắn một điều là các bạn chỉ cần chỉnh các nút này một lần rồi rất hiếm khi phải lập lại. Thực ra, phần này cũng đã có thể làm phần mở đầu của phần II.
1.2.1 Video mode:
Mỗi hãng có một tên gọi khác nhau cho cái nút này. Thường thường bạn sẽ thấy những lựa chọn như là: Game, Sports, Dynamic, Vivid, THX, Home Theater (HT) 1/2/3, Movies 1/2/3, Cinema 1/2/3, Standard, User 1/2/3 và nhiều từ tương tự.
Game mode sẽ sáng và hình không bị hoãn lại sau âm thanh (“video lag”), dành cho những người chơi video games. Sports và Dynamic modes thì sáng chói, đại khái thích hợp cho những nơi công cộng (ví dụ, quán cafe). Vivid thì rất là rực rở. Tất cả các modes này màu sắc đều trật lất, bạn không nên dùng, đặc biệt là để coi phim.
THX, HT, Movie hoặc Cinema 1 có ánh sáng yếu nhất nhưng mà màu sắc trung thực nhất và đây chính là cái mode bạn cần chọn. Đồng thời, cái mode này sẽ cho phép các bạn thích phiêu lưu vào sâu trong những advanced menus khác nữa để điều chỉnh thêm.
THX, HT, Movies hoặc Cinema 2/3, nếu có, thì cũng tương tự như là HT, Movie hoặc Cinema 1. Nhưng mà đôi khi, chúng sẽ có một cái gì đó mà nhà sản xuất làm hơi quá đáng. Tôi nghĩ không nên dùng.
Standard hoặc User 1/2/3 cho bạn sự cân bằng giữa Sports/Dynamic và HT/Movies/Cinema. Nó có ánh sáng tương đối cao và màu sắc cũng khá.
1.2.2 Video level (hoặc Black Level):
Cái này dung để chọn một trong hai hệ số của màu sắc. Nhưng mà mỗi hãng lại xài một cặp tên khác nhau, như là Normal/Expanded, hoặc là Video/PC, hoặc là 7.5IRE/0IRE và gì nữa. Đúng lý ra giá trị của mỗi màu sắc (R,G,B) phải đi từ 0 đến 255 (đủ cho 1 byte). Nhưng mà các ông Hollywood lại chỉ xài từ 17 đến 235. Hai phần đầu và đuôi mấy ỗng dự định xài cho việc gì khác hổng biết, đến bây giờ cũng chưa xài. Nói cho vui, 0-16 được gọi là "Blacker Than Black" (BTB=đen hơn là đen) và 236-255 được gọi là, bạn thực thông minh, "Whiter Than White" (WTW=trắng hơn là trắng).
Tất cả các hệ thống, máy móc thâu hình và phát hình số (digital) đều xài 17-235. Duy nhất là computers vẫn còn xài 0-255. Do đó, 99% thời gian bạn sẽ chọn 17-235, tức là Normal/Video/7.5IRE. Đương nhiên, lúc bạn xài TV thế cho màn hình computer, thì phải chọn 0-255, hoặc Expanded/PC/0IRE. Còn một trường hợp nữa (mệt quá), nếu bạn xài HTPC để coi phim thì chọn cái gì? Xin trả lời: "Ngọ hổng biết nữa, ngọ hổng xài HTPC".
1.2.3 Color Temperature:
Nói một cách nôm na, đây là danh từ dùng để diển tả cái tông ("tone") của màu sắc, ấm hay mát ("warm" hay "cool"). Đơn vị của nó là độ Kevin. Các sự chọn lựa sẽ là 5500K/6500K/7500K hoặc warm/medium/cool. Theo tiêu chuẩn thâu hình và phát hình, màu ở 6500K là màu bình hòa (không có nóng lạnh, tốt!) và là màu trắng. Lên cao hơn 6500K thì màu bắt đầu nghiêng về hướng xanh dương (mát, "cool")... và làm cho bạn có cảm tưởng là nó sáng hơn một chút. Thấp hơn 6500K thì màu bắt đầu nghiêng về hướng của màu vàng rồi đỏ (ấm, "warm"). Các bạn muốn chọn 6500K để có màu sắc trung thực, đúng không? Thế thì nên chọn "warm" hoặc là 5500K. Thưa vâng, chọn 5500K vì khi các bạn chọn 5500K các nhà sản xuất sẽ giúp bạn thế vào 6500K. Bạn chọn 6500K họ sẽ thế vào 7500K, vv. Lý do, tôi nghĩ, là nằm ở phần cuối của câu thứ năm của đoạn văn này (ngay phía sau ba dấu chấm đấy, thấy chưa?). Đùa thôi, lý do rất đơn giản là tại vì không có TV nào mà chính xác 100% cả!
1.2.4 Back Light:
Đây là một con số dùng để điều chỉnh cường độ của các ngọn đèn LED's nếu TV của bạn là LCD. Nếu TV là plasma thì nó là "low" hay "high" hoặc là không có. Nếu bạn chơi projectors (từ đây về sau sẽ viết tắt là FP cho “front projector”) thì họ xài danh từ Bulb Mode hoặc tương tự.
Tôi xin nói riêng về FPs trước. Tại vì giá thành của bóng đèn hơi mắc (có gì thì mình xin lỗi, đã xúc phạm), trong thời gian đầu bạn nên chọn Bulb Mode ở "Low" (hoặc "ECON"). Sau 1000 đến 1500 giờ, khi ánh sáng đã giãm xuống thì các bạn chuyển qua "High" (hoặc "NORMAL"). Làm như vậy bóng đèn sẽ thọ lâu hơn và ánh sáng mà bạn có được, nói chung, sẽ đều hơn từ đầu đến cuối. Xin bổ túc, ánh sáng khác biệt giữa "Low" và "High" chỉ khoảng 20%.
Còn về LCD TVs thì các bạn có thể để Back Light ở cao hơn một chút ngay từ đầu cũng không sao. Bóng đèn LED thọ rất dài. Thường thường những thứ khác trong TV của bạn sẽ đứt bóng trước.
1.2.5 Gamma:
Đây là một con số mũ ở trong phương trình biểu diển đường cong Gamma Curve. Đường cong Gamma Curve xác định mức độ thay đổi từng bước của ánh sáng từ đen đến trắng 100%. Con số được nhiều người chấp nhận nhất là 2,2. Có một số rất ít thì thích 2,4.
Gamma cao (hơn 2,2) thì mức độ thay đổi của ánh sáng từ đen đến trắng ~30% hơi chậm và từ trắng ~30% đến trắng 100% thì rất là nhanh. Cái lợi của nó là những hình ảnh sáng sẽ rất nổi bật ("3D pop"). Ngược lại, những hình ảnh tối thì có thể sẽ bị giảm đi chi tiết.
Gamma thấp (dưới 2,2) thì mức độ thay đổi của ánh sáng từ đen đến trắng ~30% hơi nhanh và từ trắng ~30% đến trắng 100% thì hơi chậm. Cái lợi của nó là những hình ảnh tối thì sẽ có chi tiết rỏ ràng hơn ("shadow details"). Ngược laị, những hình ảnh sáng thì sẽ bị giảm đi sự nổi bật.
Để đo Gamma mình sẽ phải dùng "test patterns" cùng với một máy đo, cái mà mình không có. Cho nên, tôi khuyên các bạn nên để nó ở vị trí trung bình, tức là "2,2" hoăc "0" hoặc "Normal".
1.2.6 Linh Tinh:
Nhóm này bao gồm những chức năng đặc biệt như là Iris (nhiều TVs, FPs), OPC (Sharp LCD TV), Motion Enhancement (ví dụ, 240/480/600Hz), Active Contrast (Sharp LCD TV), Briliant Colors (Benq FP), Quad Color (Sharp LCD TV), Black Frame Insertion (Sony FP), NR (Noise Reduction, mọi TV), Edge Enhancement (nhiều TVs, FP, DVD/BD players), vv và vv.
Theo tôi nghỉ, các bạn nên tắt ("turn off" hoặc "disable") những chức năng này. Chính tôi không xài một cái nào cả. Chúng đúng là linh tinh (dị giới?). Một ngoại lệ là JVC FP, xài Iris sẽ giúp tạo ra một màu đen rất là đen và hình không bị "giựt" như những FPs hay TVs khác khi dùng nó. Nhưng nếu phòng bạn có một chút ánh sáng nào thôi thì nó trở thành vô dụng. Nếu các bạn thích quậy ("tweak") thì có thể trở lại nhóm Linh Tinh này sau khi đã làm xong phần điều chỉnh căn bản.
2 ĐIỀU CHỈNH HÌNH CĂN BẢN:
2.1 Download dĩa hoăc hình thí nghiệm:
Trước hết thì bạn đi thu thập các hình thí nghiệm (“test patterns”). Có thể các bạn đã thấy cái link này rồi: AVS HD 709. Họ cho bạn 3 dạng file:
HDMV (.exe) hay HDMV (.7z): đây là một iso file dùng để 'burn' vào dĩa Blu-ray (BD-RE hay BD-R). Tôi nghỉ mình không cần phải phí dĩa Blu-ray như vậy đâu.
AVCHD (.exe) hay AVCHD (.7z): đây là một iso file dùng để 'burn' vào dĩa DVD (chơi được trong hầu hết các Blu-ray players nhưng chơi không được trong DVD players!). Bạn có thể chọn giải pháp này.
MP4 (.exe) hay MP4 (.7z): đây là những files có thể chơi được trong MPEG-4 AVC hoặc H.264 video players hoặc trong chính cái TV. Nếu TV của bạn có USB input và chơi được file dạng này thì đây là lựa chọn hay nhất. PATTERNS MANUAL (.pdf) là cuốn ‘manual’ của nó nếu bạn muốn thử trình độ tiếng Anh của mình.
Nguyên bộ files nầy thì quá dư cho bạn xài. Để chỉnh hình căn bản, bạn chỉ cần 5 MP4 files sau đây (nếu xài dĩa thì bạn chơi những chapters có hình tương tự trong phần “Basic Settings”):
• Contrast: “.\Basic Settings\3-White Clipping.mp4
• Brightness: “.\Basic Settings\1-Black Clipping.mp4”
• Contrast và Brightness chung một lúc: “.\Basic Settings\2-APL Clipping.mp4”
• Color và Tint chung một lúc: “.\Basic Settings\4-Flashing Color Bars.mp4”
• Sharpness: “.\Basic Settings\5-Sharpness & Overscan.mp4”
2.2 Mua phim lọc màu xanh dương:
Kế tiếp thì mình đi thu thập tấm phim lọc màu xanh dương ("Blue filter") dùng để chỉnh Color và Tint. Bạn nhớ tôi từng nói: "khoang hãy lo, mình sẽ tính" không? Bây giờ thì lo được rồi đó. Tôi cũng không biết ở Việt Nam kiếm đâu ra nữa! Đừng giận (I am very sorry!). Để xem xem, trong hộp của vài movies của Sony/Disney có phim lọc này. Mới nhất đây là War of the World cũng có. Hai dĩa dùng để chỉnh hình mà được để bán trên thị trường là DVE (Digital Video Essential) và S&M (Spears and Munsil) cũng có. Những tiệm bán đồ cho mấy ban nhạc DJ để bắt đèn màu có thể cũng có. Tiệm bán hàng camera chuyên nghiệp có thể có. Ở những tiệm này bạn phải hỏi cái "Lee Filters" số #71. Đây mới đúng là màu “blue” mà bạn muốn. Tôi còn dư vài tấm từ những dĩa này, nhưng mà không biết sẽ gởi tặng ai đây (khó xử quá)? Hay là vậy đi, các bạn tự giúp nhau. Nếu bạn nào tìm được nguồn mua cái phim lọc này thì thông báo cho mọi người khác biết?
2.3 Chuẩn bị điều chỉnh căn bản:
Trước khi bắc đầu, tôi xin khuyên cáo các bạn hãy vào menu và ghi xuống tất cả các số và mấy cái chọn lựa mà có sẵn trong đó. Nếu có gì trục trặc các bạn có thể quay ngược lại. Đăc biệt là bạn nào đã mướn chuyên gia để chỉnh hình cho TV/PJ của bạn, bạn phải tự chịu trách nhiệm về việc này.
Kế tiếp, các bạn phải thưc hiện theo phần "1.2 Tài liệu bổ túc". Các bạn phài làm hết từ 1.2.1 đến 1.2.6. Xong rồi những nút căn bản thì các bạn chỉnh thành "0" hoặc trung bình (trong nhiều TV con số trung bình có thể là "50" chẳng hạn).
2.4 Điều chỉnh căn bản:
Cuối cùng rồi cũng vào đề. Phần này thật bất ngờ là rất ngắn và rất dễ. Tôi nghỉ khó nhât là kím cho được tấm hình lọc (I am very sorry, again).
2.4.1 Contrast: mởi lên file “.\Basic Settings\3-White Clipping.mp4”.

Trước hết bạn sẽ chỉnh Contrast xuống thấp thật thấp để có thể thấy được mọi đường gạch từ 230-253 đều chớp. Sau đó chỉnh nó lên từ từ để những đường gạch 230-235 vẫn còn chớp và 236 trở lên thì hết chớp. Nồng độ ánh sáng của gạch 235 ở đây chính là ‘White Level’ của bạn. Trong lúc bạn coi TV bình thường, màu trắng sáng nhất mà TV của bạn sẽ phát ra là màu trắng ở số 235 này.
Đối với những bạn xài FP (hoăc TV hơi cũ) thì phần điều chỉnh Contrast đến đây là xong. Nếu bạn chỉnh nó lên nữa thí nó sẽ bị mất đi cái “3D-pop”. Đương nhiên, nếu bóng đèn của bạn đã cũ rồi thì phài hy sinh “3D-pop” một chút và tăng Contrast lên một chút.
Những bạn xài TV thì phần cần chú ý vấn đề ngược lại. TV thời này sáng lắm. Một phần nữa là do kỷ thuật ‘quái chiêu’ của LCD TVs, bạn có thể chỉnh Contrast lên maximum mà mọi đường gạch vẫn còn chớp. Nếu bạn để vậy để coi phim thì hình ảnh có thể sẽ bị chói (quá sáng). Cho nên bạn có thể tùy hỷ mà chỉnh nó xuống để cho lúc coi phim/TV bình thường thí hình ảnh vẫn còn sáng nhưng không đến mức độ chói mắt.
2.4.2 Brightness: mởi lên file “.\Basic Settings\1-Black Clipping.mp4”.

Bạn sẽ chỉnh Brightness lên hoặc xuống cho đến khi những đường gạch 17 trở lên vẫn còn chớp và gạch 16 hết chớp. Gạch 16 lúc này sẽ là ‘Black Level’ của bạn. Nó có nghĩa là trong lúc bạn coi TV bình thường, màu đen nhất mà TV của bạn sẽ phát ra là màu đen ở số 16 này.
Cần chú ý là môi trường xung quanh sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến Black Level. Bạn nên ngồi vào ghế lúc coi TV bình thường để chỉnh cái này (ý nói là đừng ‘dán' mắt vào màng ảnh). Đồng thời, bạn nên chỉnh nó cho cả ban ngày và ban đêm (hoăc là lúc sáng và lúc tối). Xong rồi tùy lúc nào mà bạn coi TV thì đổi nó qua hoăc đổi nó lại.
File “.\Basic Settings\ 2-APL Clipping.mp4” là ‘gộp’ chung của hai files trên. Bạn có thể dùng nó để chỉnh Contrast và Brightness cùng một lúc. Xin nhắc lại là Back Light (phần 1.2.4) có ảnh hưởng trực tiếp đến ánh sáng của màn ảnh. Nếu bạn chỉnh Back Light thì phải quay lại chỉnh hai cái Contrast và Brightness này.

2.4.3 Color và Tint: mởi lên file “.\Basic Settings\4-Flashing Color Bars.mp4”.
Trong file này, bốn cái ô ở dưới những chữ “Color” và “Tint” sẽ chớp. Nếu TV/FP của bạn có “Blue Mode” thì đây là lúc bật nó lên. Còn không thì bạn phải xài cái phim lọc màu xanh dương (kím nhanh thật!). Nếu xài phim lọc thì che nó lên mắt của bạn giống như đang mang kiếng.

Trước hết bạn sẽ chỉnh Color cho đến khi hai ô bên ngoài (hai ô dưới chữ ‘Color’) hết chớp hoăc chớp ở mức tối thiểu. Kế tiếp bạn chỉnh Tint cho đến khi hai ô bên trong (hai ô dưới chữ gì nhỉ?) hết chớp hoăc cũng chớp ở mức tối thiểu. Xong rồi bạn quay qua quay lại giữa Color và Tint cho đến cả bốn ô chỉ chớp ở mức độ ít nhất và đều nhất. Nếu chúng không chớp thì bạn rất là may mắn. (Hầu như 100% là bạn phái thưc hiện “Advanced Calibration” (dịch là “Điều Chỉnh Tiên Tiến”?) để cho 4 ô đều hết chớp).
2.4.4 Sharpness: mởi lên file “.\Basic Settings\5-Sharpness & Overscan.mp4”.

Để chỉnh cái này bạn phải cần có mỹ thuật chứ không phải kỹ thuật nữa. Theo tôi nghĩ, dễ nhất thì bạn chú ý vào cái đường cong hơi giống chử “L” (nó bắt đầu bên cạnh câu “Gray area...”, đi thẳng xuống rồi cong qua bên phải). Trong lúc nhìn vào cái chử “L” này, bạn tăng Sharpness lên hết ga rồi hạ nó xuống thấp hết ga. Lúc Sharpness cao quá thì sẽ thấy khúc đường cong của chữ “L” có “răng cưa” (hay còn gọi là “staircase effect”). Lúc Sharpness thấp quá thì bạn sẽ thấy bức hình bị nhòa đi. Ban cứ tiếp tục chỉnh lên và xuống. Có một lúc bạn thấy chử “L” vừa rỏ nét và vừa mướt nhất. Đây là lúc bạn nên dừng lại và chọn độ chỉnh này. Trong lúc coi phim bạn cũng có thể quay lại để chỉnh cái nút này theo sở thích.
Tóm lại, chỉnh hình cần có cả kỹ thuật lẫn mỹ thuật. Sau khi chỉnh bằng kỹ thuật xong thì bạn quay qua coi phim hoặc những tài liệu mà bạn thích để duyệt lại. Nếu màn hình hơi trắng quá, tối quá, xanh quá, đỏ quá, lợt quá, v.v. thì bạn quay lại chỉnh những nút căn bản này một chút. Một điều cần chú ý là nếu trước đây bạn từng xài Vivid mode chẳng hạn (phần 1.2.1 Video Mode), bây giờ đổi qua Cinema mode bạn có thể thấy là bức hình hơi nhạt nhẽo. Bạn nên dành vài ngày để làm quen với bức hình mới. Nếu không làm quen được thì còi như phần điều chỉnh Color và Tint là không hợp với sở thích của bạn. Phần điều chỉnh Contrast và Brightness thì tôi nghĩ đều có thể áp dụng được cho mọi người.
Bài này tôi đã tự viết trong ngôn ngữ của tôi với sự hiểu biết vả kinh nghiệm mà tôi đã thu lượm đươc trong nhiều năm qua chứ không phải dich lại từ môt nguồn nào khác. Đương nhiên nó sẽ có nhưng câu không đươc mạch lạc lắm hoặc ý tứ không được rỏ ràng. Nếu các bạn có thắc mắc xin cứ hỏi. Nếu các bạn khác có thể trả lời những câu hỏi này trong khi tôi không có ở đây thì vui lòng giúp dùm một tay. Trong vấn đề download "test patterns" và mua phim lọc xin các bạn cũng vui lòng giúp đỡ lẫn nhau.
Chúc các bạn có được một màn hình thật đẹp...