Uchiha_Madara
Nghỉ hưu
"Muốn sang phải bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy"
Hồi nhỏ đọc câu này mình chỉ tủm tỉm cười đoạn "yêu rồi lấy thầy", còn câu trên thì hiểu một cách mơ hồ và hiểu chưa rõ ràng.
Tất nhiên, câu dưới không có nghĩa là yêu rồi lấy thầy mà có nghĩa là yêu kính người dạy dỗ con mình, nên có khi người ta hay chữa lại câu ca dao để tránh hiểu nhầm thành, "muốn con hay chữ phải yêu kính thầy".
Về câu đầu, theo cách hiểu thông thường thì có nghĩa là "muốn sang (sông) thì phải bắc cầu", nhưng ở đây còn có thêm chữ kiều, cầu kiều, tại sao phải là cầu kiều, đâu phải sông nào cũng bắc cầu kiều?
Vậy cầu kiều là gì? Trong tiếng Việt cổ có một từ "kiều" dùng để chỉ cái yên ngựa. Ca dao còn nhiều câu ghi lại từ kiều với nghĩa là cái yên ngựa: "Sông sâu ngựa lội ngập kiều/ Dẫu anh có phụ còn nhiều nơi thương" hay là "Ngựa ô anh thắng kiều vàng/ Anh tra khớp bạc đón nàng về dinh". Còn trong tiếng Hán, cành cây cao và cong cũng được gọi là kiều. Vậy nên ở đây cầu kiều có nghĩa là cây cầu cong cong cao cao giống với cái yên ngựa.
Còn theo điển tích thời Tam Quốc, Tào Tháo cho xây Đài Đồng Tước tại Lâm Chương, Hà Nam với ý định sau chiến thắng sẽ an dưỡng tại đây, tuyển mỹ nữ vui thú cảnh hồi xuân. Đài Đồng Tước gồm 1 đài chính và 2 đài phụ ở phía đông và phía tây (Ngọc Long và Kim Phượng). Chúng được nối với nhau bằng những chiếc cầu cong nguy nga bề thế vững chãi. Tào Thực (Con trai Tào Tháo) đã làm phú ca ngợi rằng: "Liên nhị kiều ư đông tây hề/ Nhược trường không chi đế đống"; dịch nghĩa: Hai cây cầu nối từ đông sang tây/ Như cầu vồng chói sáng giữa trời cao.
Tuy nhiên, sau đó Gia Cát Lượng Khổng Minh tài ba cái thế đã sửa lại để dùng cho kế khích tướng của mình (dẫn đến trận Xích Bích lừng lẫy), thành "Lãm nhị Kiều ư đông nam hề, Lạc triêu tịch chi dữ cộng", Nghĩa là: Tìm hai Kiều nam phương về sống, Vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân". Trong đó Tiểu Kiều là vợ của Chu Du, Đại Kiều là vợ của Tôn Sách (người lập nên nhà Đông Ngô).
Kết lại, người ta quan niệm cầu kiều là một loại cầu đẹp và sang trọng, bởi trước đây chỉ có các nhà quyền quý, giàu sang mới có hồ sen trong vườn, giữa hồ có lầu ngồi hóng mát, ngâm thơ. Để đi ra lầu, họ thường xây một chiếc cầu cong như hình cái yên ngựa. Việc tồn tại của cầu kiều trong vườn nhà như là một biểu tượng, một minh chứng về sự giàu sang, quyền quý với những thú vui tao nhã.
Vì thế câu này nên được hiểu theo nghĩa: muốn sang (sang trọng) thì hãy bắc cầu kiều, còn muốn con giỏi giang, tiến tới thì phải biết quý trọng người thầy. Cũng cần phải nói thêm là ở câu ca dao này, lượng thông tin chủ yếu tập trung ở câu thứ hai, vì thế nếu câu thứ nhất có được hiểu chưa chính xác thì cũng không làm sai lệch nội dung của toàn bài.
Với những hàm ngôn quá sâu gắn với điển tích như vậy, rất có thể bài ca này do lớp trí thức Nho học sáng tác và rơi vào hiện tượng “Những bài thơ bay đi” theo cách nói của nhà thơ Xuân Diệu để trở thành ca dao. Và dân gian dùng bài ca khuyên nhủ con cháu trên tinh thần lấy thông điệp cơ bản để giáo dục là chủ đạo chứ không cần cắt nghĩa tường minh.
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy"
Hồi nhỏ đọc câu này mình chỉ tủm tỉm cười đoạn "yêu rồi lấy thầy", còn câu trên thì hiểu một cách mơ hồ và hiểu chưa rõ ràng.
Tất nhiên, câu dưới không có nghĩa là yêu rồi lấy thầy mà có nghĩa là yêu kính người dạy dỗ con mình, nên có khi người ta hay chữa lại câu ca dao để tránh hiểu nhầm thành, "muốn con hay chữ phải yêu kính thầy".
Về câu đầu, theo cách hiểu thông thường thì có nghĩa là "muốn sang (sông) thì phải bắc cầu", nhưng ở đây còn có thêm chữ kiều, cầu kiều, tại sao phải là cầu kiều, đâu phải sông nào cũng bắc cầu kiều?
Vậy cầu kiều là gì? Trong tiếng Việt cổ có một từ "kiều" dùng để chỉ cái yên ngựa. Ca dao còn nhiều câu ghi lại từ kiều với nghĩa là cái yên ngựa: "Sông sâu ngựa lội ngập kiều/ Dẫu anh có phụ còn nhiều nơi thương" hay là "Ngựa ô anh thắng kiều vàng/ Anh tra khớp bạc đón nàng về dinh". Còn trong tiếng Hán, cành cây cao và cong cũng được gọi là kiều. Vậy nên ở đây cầu kiều có nghĩa là cây cầu cong cong cao cao giống với cái yên ngựa.
Còn theo điển tích thời Tam Quốc, Tào Tháo cho xây Đài Đồng Tước tại Lâm Chương, Hà Nam với ý định sau chiến thắng sẽ an dưỡng tại đây, tuyển mỹ nữ vui thú cảnh hồi xuân. Đài Đồng Tước gồm 1 đài chính và 2 đài phụ ở phía đông và phía tây (Ngọc Long và Kim Phượng). Chúng được nối với nhau bằng những chiếc cầu cong nguy nga bề thế vững chãi. Tào Thực (Con trai Tào Tháo) đã làm phú ca ngợi rằng: "Liên nhị kiều ư đông tây hề/ Nhược trường không chi đế đống"; dịch nghĩa: Hai cây cầu nối từ đông sang tây/ Như cầu vồng chói sáng giữa trời cao.
Tuy nhiên, sau đó Gia Cát Lượng Khổng Minh tài ba cái thế đã sửa lại để dùng cho kế khích tướng của mình (dẫn đến trận Xích Bích lừng lẫy), thành "Lãm nhị Kiều ư đông nam hề, Lạc triêu tịch chi dữ cộng", Nghĩa là: Tìm hai Kiều nam phương về sống, Vui cùng nhau giấc mộng hồi xuân". Trong đó Tiểu Kiều là vợ của Chu Du, Đại Kiều là vợ của Tôn Sách (người lập nên nhà Đông Ngô).
Kết lại, người ta quan niệm cầu kiều là một loại cầu đẹp và sang trọng, bởi trước đây chỉ có các nhà quyền quý, giàu sang mới có hồ sen trong vườn, giữa hồ có lầu ngồi hóng mát, ngâm thơ. Để đi ra lầu, họ thường xây một chiếc cầu cong như hình cái yên ngựa. Việc tồn tại của cầu kiều trong vườn nhà như là một biểu tượng, một minh chứng về sự giàu sang, quyền quý với những thú vui tao nhã.
Vì thế câu này nên được hiểu theo nghĩa: muốn sang (sang trọng) thì hãy bắc cầu kiều, còn muốn con giỏi giang, tiến tới thì phải biết quý trọng người thầy. Cũng cần phải nói thêm là ở câu ca dao này, lượng thông tin chủ yếu tập trung ở câu thứ hai, vì thế nếu câu thứ nhất có được hiểu chưa chính xác thì cũng không làm sai lệch nội dung của toàn bài.
Với những hàm ngôn quá sâu gắn với điển tích như vậy, rất có thể bài ca này do lớp trí thức Nho học sáng tác và rơi vào hiện tượng “Những bài thơ bay đi” theo cách nói của nhà thơ Xuân Diệu để trở thành ca dao. Và dân gian dùng bài ca khuyên nhủ con cháu trên tinh thần lấy thông điệp cơ bản để giáo dục là chủ đạo chứ không cần cắt nghĩa tường minh.
BuiAn tổng hợp phân tích