giuadongdoimiusinh
Well-Known Member

[Ngày Xuân]{Câu Chuyện Thư Pháp}
Thư pháp Việt là một lọai hình nghệ thuật chữ viết, sử dụng các ký tự Latinh với phương tiện cọ lông và mực Tầu để thể hiện. Được chia ra là hai lối viết chính: Lối trúc và lối Mai
LỐI TRÚC: là lối viết mạnh mẽ rắn chắc các nét được viết to, mang thần sắc vốn dĩ của thư pháp Hán nhưng cũng không kém phần mềm mại uyển chuyển.

LỐI MAI: các nét chữ được viết mảnh mai từng nét chữ mềm mại thích hợp với cấu trúc của các ký tự Latinh đa số là những nét cong uốn lượng chứ không góc cạnh như chữ Hán.


Mỗi thư pháp gia có mỗi phong cánh và nét chữ hòan tòan khác nhau, mỗi người một vẻ. Nhưng được chia vào các thể chính như sau: Điền , Họa , Thủy , Mộc , Phong , Dị.
ĐIỀN THỂ: là lối viết chữ Việt được sắp xếp thành từng khối vuông hay tròn, được ưa chuộng và khắc chạm trên các bức phù điêu... thường dùng cho những câu đối trong đền chùa ...


THỦY THỂ: là lối viết chữ nhái theo lối viết chữ Hán, chữ viết không ngang hàng mà được viết dọc xuống như nứơc đổ.
MỘC THỂ: là lối viết mộc mạc giản dị ngay hàng thẳng lối dễ đọc và dễ cảm nhận nhưng không kém phần bay bướm. Lối này được nhiều người ưa thích và thể hiện.

PHONG THỂ: là lối chữ viết nhanh trôi chảy. Khi đặt bút xuống là như một cơn bão quét qua không phút ngập ngừng. Nét chữ tuôn ra theo cảm hứng và quán tính vì thế đôi khi nét chữ không hòan chỉnh và hơi khó đọc nhưng vẫn dễ đọc hơn Dị thể.

DỊ THỂ: là lối viết chữ cá tính ngọn bút xuất phát từ cảm hứng cao độ, đường nét không theo chuẩn mực mà phóng bút tự do. Nét chữ không rõ ràng mà chỉ mang dáng dấp chính của con chữ, người thưởng ngoạn đôi khi cũng phải đóan để hiểu được nội dung.

Chú ý:
(Chữ viết cho dù sáng tạo hoặc rắc rối cỡ nào nhưng điều quan trọng phải để ý đó là sự lầm tưởng, có những nét chữ khi tác giả trình bày, dĩ nhiên tác giả đọc được, nhưng phần đông người xem hay nhầm lẫn sang chữ khác vì sáng tạo đó vượt quá khuôn khổ.)
Có Hai thể chữ cũng nên nói tới:
THỂ LONG PHỤNG: là dạng chữ rong được viết bằng một bản gỗ nhỏ có răng cưa. Mỗi chữ được viết vẽ kèm theo những hình ảnh lạ mắt như rồng phụng hoặc các ông Phúc Lộc Thọ...
(Chữ viết cho dù sáng tạo hoặc rắc rối cỡ nào nhưng điều quan trọng phải để ý đó là sự lầm tưởng, có những nét chữ khi tác giả trình bày, dĩ nhiên tác giả đọc được, nhưng phần đông người xem hay nhầm lẫn sang chữ khác vì sáng tạo đó vượt quá khuôn khổ.)
Có Hai thể chữ cũng nên nói tới:
THỂ LONG PHỤNG: là dạng chữ rong được viết bằng một bản gỗ nhỏ có răng cưa. Mỗi chữ được viết vẽ kèm theo những hình ảnh lạ mắt như rồng phụng hoặc các ông Phúc Lộc Thọ...

THỂ ÂM DƯƠNG: là dạng chữ ngược, nhìn vào trông như chữ Hán, muốn đọc thì phải quen lối viết và tưởng tượng ngựơc lại, hoặc nhìn ngược từ mặt sau tờ giấy không thì nhìn vào hình ảnh phản chiếu từ một tấm gương.

Kỹ thuật vận cọ: cũng theo phong cách Hán như:
Ức (nhấn mạnh xuống), Đôn (dè dặt), Tỏa ( sổ hạ xuống), Trì ( viết nét chậm lại), Tốc (viết nhanh), Hòan ( thả lại, hồi đầu), Khẩn (vung bút đột ngột), Khinh ( nhẹ nhàng lả lướt bay bỗng), Trọng ( nhấn điểm xuyến).
Một tác phẩm chuẩn mực cần phải hội đủ thêm các yếu tố sau: Tâm, Ý, Trí, Khí.
TÂM: khi người viết đặt tâm hồn của mình vào con chữ. Đôi khi nhìn vào chữ viết của họ mình có thể đóan được cả tính cách và tâm hồn cũng như tâm trạng của người viết. Bị ảnh hưởng bởi (hỷ, nộ, ái, ố) cho nên khi viết cần phải tịnh tâm để tránh những tạp niệm ảnh hưởng tới nét chữ.
Ý: Là những gửi gắm của tác giả trong tác phẩm từ đường nét đến nội dung cũng như những hình ảnh minh họa kèm theo nếu có tạo chiều sâu cho tác phẩm.
TRÍ: Là phần khéo léo của tác giả khi xử lý nét chữ và sắp xếp bố cục cũng như trang trí cho tác phẩm. Sao cho thật sáng tạo và ấn tượng với những phong cách riêng để tác phẩm thêm bắt mắt và thu hút người thưởng ngoạn.
KHÍ: (Bút lực) Là kỹ thuật vận bút của người viết sao cho uyển chuyển, khi nhanh khi chậm khi đậm khi nhạt và dày mỏng sao cho nhịp nhàng và thanh thóat.
Ức (nhấn mạnh xuống), Đôn (dè dặt), Tỏa ( sổ hạ xuống), Trì ( viết nét chậm lại), Tốc (viết nhanh), Hòan ( thả lại, hồi đầu), Khẩn (vung bút đột ngột), Khinh ( nhẹ nhàng lả lướt bay bỗng), Trọng ( nhấn điểm xuyến).
Một tác phẩm chuẩn mực cần phải hội đủ thêm các yếu tố sau: Tâm, Ý, Trí, Khí.
TÂM: khi người viết đặt tâm hồn của mình vào con chữ. Đôi khi nhìn vào chữ viết của họ mình có thể đóan được cả tính cách và tâm hồn cũng như tâm trạng của người viết. Bị ảnh hưởng bởi (hỷ, nộ, ái, ố) cho nên khi viết cần phải tịnh tâm để tránh những tạp niệm ảnh hưởng tới nét chữ.
Ý: Là những gửi gắm của tác giả trong tác phẩm từ đường nét đến nội dung cũng như những hình ảnh minh họa kèm theo nếu có tạo chiều sâu cho tác phẩm.
TRÍ: Là phần khéo léo của tác giả khi xử lý nét chữ và sắp xếp bố cục cũng như trang trí cho tác phẩm. Sao cho thật sáng tạo và ấn tượng với những phong cách riêng để tác phẩm thêm bắt mắt và thu hút người thưởng ngoạn.
KHÍ: (Bút lực) Là kỹ thuật vận bút của người viết sao cho uyển chuyển, khi nhanh khi chậm khi đậm khi nhạt và dày mỏng sao cho nhịp nhàng và thanh thóat.
Còn tiếp mấy bác nhế ... !
Cho tôi xin chữ nhẫn
Viết lên lòng bàn tay
Để mai về nắm lại
Giữ kìm những mê say
Cho tôi xin chữ phúc
Viết lên trán cao gầy
Cho mai về tắm gội
Sạch những điều không may
Cho tôi xin chữ chí
Viết đều lên hai vai
Để mai hồn bớt nhọc
Nốt ba phần trần ai
Cho tôi xin chữ tâm
Viết thẳng vào trong óc
Để mai mòn thân xác
Tâm chìm trong núi sông
Giữa dòng đời mưu sinh !
Chỉnh sửa lần cuối: