Sau thất bại của bộ phận điện thoại, ngày nay, Nokia được biết đến thông qua các bộ phận nghiên cứu, viễn thông và thiết bị mạng. Nokia Technologies, công ty con thuộc tập đoàn Nokia, thông qua việc cấp phép để sử dụng các sáng chế, công nghệ và thương hiệu của hãng, thu về được khoảng 1,4 tỷ euro (1,67 tỷ USD) doanh thu mỗi năm.
Vào những năm cuối thế kỷ 20 và thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, thời điểm mà ngành sản xuất điện thoại di động vẫn còn đang ở giai đoạn đầu, Nokia đã nổi lên như một gã khổng lồ với sản phẩm nổi bật trên toàn thế giới. Điện thoại của Nokia xuất hiện ở nhiều quốc gia với số lượng người dùng khổng lồ; họ hoàn toàn áp đảo các đối thủ trong ngành và có những thời điểm người ta cho rằng các công ty khác không có cơ may nào để đuổi kịp gã Goliath tới từ Phần Lan.
Thế nhưng, chỉ gần 20 năm sau, thế hệ người dùng mới hầu như chỉ biết đến những thương hiệu như Apple, Samsung, Xiaomi, Huawei… Cái tên Nokia rơi vào quên lãng theo cái cách mà không một ai có thể ngờ tới. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thảm cảnh của họ, nhưng lý do lớn nhất chính là sự bảo thủ đến khó tin của ban lãnh đạo công ty đã làm cho cái tên Nokia gần như biến mất.
Giai đoạn hình thành
Cái tên Nokia đã xuất hiện trên bản đồ thế giới 155 năm trước bởi ông Fredrik Idestam với ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất bột giấy. Vài năm sau đó, ông hợp tác với người bạn là Leo Mechelin để mở rộng sản xuất cho Nokia; đây là người sau này đã trở thành chủ tịch công ty và mở rộng lĩnh vực kinh doanh của công ty sang sản xuất điện, dù bị người bạn của mình phản đối. Năm 1922, Nokia bắt đầu hợp tác với Công ty Cao su Phần Lan (Suomen Gummitehdas) và nhà máy cáp Kaapelitehdas; tất cả đều do ông Eduard Polón lãnh đạo.
Logo thuở ban đầu của Nokia (Ảnh: Kindpng)
Năm 1967, ba công ty Nokia, Kaapelitehdas và Cao su Phần Lan chính thức hợp nhất tạo ra Tập đoàn Nokia mới. Tập đoàn này tái cấu trúc và tham gia vào bốn lĩnh vực kinh doanh chính: lâm nghiệp, cáp, cao su và điện tử. Tại thời điểm này, công ty hưởng nhiều lợi ích từ việc mở rộng và hợp tác với Liên Xô, khi đây là một trong những thị trường lớn nhất của họ. Nokia cũng giao thương với Mỹ, dù đây đang là giai đoạn chiến tranh Lạnh giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới.
Những năm đầu trong việc phát triển ngành điện tử
Chỉ 10 năm sau, Nokia dưới sự lãnh đạo của Kari Kairamo đã chuyển hướng mạnh mẽ sang ngành điện tử, dù vẫn duy trì hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh còn lại. Sự phát triển mạnh mẽ của Nokia giúp cho Phần Lan được so sánh với Nhật Bản, cường quốc về phát triển công nghệ tại thời điểm này. Nokia đã mua lại nhiều công ty bao gồm nhà sản xuất tivi Salora vào năm 1984, tiếp theo là nhà sản xuất máy tính và điện tử Thụy Điển Luxor AB năm 1985 và nhà sản xuất truyền hình Pháp Oceanic năm 1987. Điều này đã đưa Nokia trở thành nhà sản xuất TV lớn thứ ba của châu Âu trong những năm 80 của thế kỷ trước, chỉ sau Philips và Thomson.
Một chiếc TV được sản xuất bởi Nokia (Ảnh: Nokia)
Trong các quyết định mua lại của công ty, thương vụ sáng suốt nhất chính là Mobira - một công ty chuyên về sản xuất điện thoại di động thời điểm đó. Việc mua lại công ty này chính là nền tảng cho mảng kinh doanh điện thoại di động trong tương lai của hãng. Tại thời điểm mới mua lại, Nokia không mặn mà với Mobira như các mảng kinh doanh khác. Dù vậy, công ty con này vẫn có những bước đột phá trong ngành viễn thông tại khu vực châu Âu cũng như trên thế giới tại thời điểm bấy giờ.
Năm 1981, Mobira ra mắt dịch vụ Điện thoại Di động Bắc Âu (NMT), mạng di động đầu tiên trên thế giới cho phép chuyển vùng quốc tế. Một năm sau, Mobira ra mắt điện thoại Mobira Senator, điện thoại di động đầu tiên của Nokia.
Chiếc điện thoại Mobira Senator của Nokia (Ảnh: Nokia)
Đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, một cú sốc bất ngờ xảy ra với Nokia khi CEO Kairamo - người khởi xướng cho những thay đổi mạnh mẽ trong tập đoàn - tự sát vào một ngày mùa đông năm 1988. Sau cái chết của ông, Nokia đã phải đưa ra những cải tổ mạnh mẽ khi mà nền kinh tế Phần Lan rơi vào suy thoái, đồng thời nhiều mảng kinh doanh tỏ ra kém hiệu quả. Đầu tiên là mảng sản xuất cáp của công ty, sau đó là mảng sản xuất cao su đều được tách thành những doanh nghiệp riêng lẻ không có quan hệ với tập đoàn. Nokia cũng bán bộ phận máy tính của mình là Nokia Data cho ICL, một công ty công nghệ có trụ sở tại Vương quốc Anh. Mặc dù đây đều là những thương vụ đúng đắn trong tình cảnh công ty tại thời điểm đó, nhưng các nhà đầu tư không đánh giá cao điều này, khiến cổ phiếu Nokia giảm mạnh.
Phát triển mạnh mẽ nhờ ngành sản xuất điện thoại
Thời kỳ khủng hoảng của Nokia bắt đầu chấm dứt khi Jorma Ollila - người đứng đầu bộ phận điện thoại của tập đoàn - chính thức trở thành CEO vào năm 1992. Ông đã định hướng công ty đi theo định hướng điện tử viễn thông, mở ra trang mới trong lịch sử của tập đoàn này. Lợi nhuận hoạt động của công ty từ mức âm năm 1991 tăng lên 1 tỷ USD 4 năm sau đó và gần 4 tỷ USD vào năm 1999. Tháng 10/ 1998, Nokia chính thức vượt qua Motorola để trở thành thương hiệu điện thoại bán chạy nhất thế giới; 2 tháng sau đó, họ sản xuất chiếc điện thoại thứ 100 triệu của mình.
Một trong những lý do giúp cho Nokia trở nên khác biệt với các đối thủ là những thiết kế trẻ trung, đổi mới và khác biệt của họ nhắm trực tiếp vào các khách hàng trẻ tuổi. Nổi bật trong số đó là Nokia 5110, Nokia 3210 và Nokia 3310 với những thiết kế màu sắc, thời trang khác hẳn so với các sản phẩm của Motorola và Sony Ericsson, 2 đối thủ lớn nhất của họ thời đó. Ngoài ra, thương hiệu xa xỉ của hãng là Vertu cũng được thành lập, đem lại những sản phẩm sang trọng cho đối tượng doanh nhân.
Bộ ba điện thoại Nokia 5110, 3210 và 3310 theo thứ tự từ trái sang phải (Ảnh: Pinterest)
Tuy nhiên chỉ thiết kế thôi là chưa đủ để Nokia trở nên khác biệt hoàn toàn so với các đối thủ. Hệ điều hành Symbian được công ty phát triển thông qua công ty con cùng tên đem lại những trải nghiệm mới cho người dùng trên thiết bị di động, với những tính năng vô cùng độc đáo. Dù vậy, hệ điều hành này gây ra nhiều khó khăn cho các nhà phát triển ứng dụng với những hạn chế của mình.
Đến năm 2000, Nokia có hơn 55.000 nhân viên, hoạt động tại 140 quốc gia trên thế giới và chiếm 30% thị phần trên thị trường điện thoại di động, lớn gần gấp đôi so với đối thủ cạnh tranh gần nhất là Motorola. Từ năm 1996 đến 2001, doanh thu của Nokia đã tăng gấp 5 lần, từ 6,5 tỷ euro lên 31 tỷ euro.
Tiếp nối thành công
Không dừng lại với chỉ những thành công nêu trên, Nokia tiếp tục mang đến đột phá với những chiếc điện thoại chụp ảnh. Năm 2003, họ bán những chiếc điện thoại có chức năng chụp ảnh đầu tiên là Nokia 3600/3650 tại thị trường Bắc Mỹ.
Hai năm sau đó, Nokia bắt đầu hợp tác với nhà sản xuất máy ảnh quang học của Đức Carl Zeiss AG và cho ra mắt dòng điện thoại N-Series. Nokia N95 và Nokia N82 lần lượt đạt được giải thưởng "Thiết bị di động chụp ảnh tốt nhất" tại châu Âu trong các năm 2006 và 2008, đem lại thành công vang dội cho Nokia trên thị trường điện thoại di động.
Vào những năm cuối thế kỷ 20 và thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, thời điểm mà ngành sản xuất điện thoại di động vẫn còn đang ở giai đoạn đầu, Nokia đã nổi lên như một gã khổng lồ với sản phẩm nổi bật trên toàn thế giới. Điện thoại của Nokia xuất hiện ở nhiều quốc gia với số lượng người dùng khổng lồ; họ hoàn toàn áp đảo các đối thủ trong ngành và có những thời điểm người ta cho rằng các công ty khác không có cơ may nào để đuổi kịp gã Goliath tới từ Phần Lan.
Thế nhưng, chỉ gần 20 năm sau, thế hệ người dùng mới hầu như chỉ biết đến những thương hiệu như Apple, Samsung, Xiaomi, Huawei… Cái tên Nokia rơi vào quên lãng theo cái cách mà không một ai có thể ngờ tới. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thảm cảnh của họ, nhưng lý do lớn nhất chính là sự bảo thủ đến khó tin của ban lãnh đạo công ty đã làm cho cái tên Nokia gần như biến mất.
Giai đoạn hình thành
Cái tên Nokia đã xuất hiện trên bản đồ thế giới 155 năm trước bởi ông Fredrik Idestam với ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất bột giấy. Vài năm sau đó, ông hợp tác với người bạn là Leo Mechelin để mở rộng sản xuất cho Nokia; đây là người sau này đã trở thành chủ tịch công ty và mở rộng lĩnh vực kinh doanh của công ty sang sản xuất điện, dù bị người bạn của mình phản đối. Năm 1922, Nokia bắt đầu hợp tác với Công ty Cao su Phần Lan (Suomen Gummitehdas) và nhà máy cáp Kaapelitehdas; tất cả đều do ông Eduard Polón lãnh đạo.

Logo thuở ban đầu của Nokia (Ảnh: Kindpng)
Năm 1967, ba công ty Nokia, Kaapelitehdas và Cao su Phần Lan chính thức hợp nhất tạo ra Tập đoàn Nokia mới. Tập đoàn này tái cấu trúc và tham gia vào bốn lĩnh vực kinh doanh chính: lâm nghiệp, cáp, cao su và điện tử. Tại thời điểm này, công ty hưởng nhiều lợi ích từ việc mở rộng và hợp tác với Liên Xô, khi đây là một trong những thị trường lớn nhất của họ. Nokia cũng giao thương với Mỹ, dù đây đang là giai đoạn chiến tranh Lạnh giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới.
Những năm đầu trong việc phát triển ngành điện tử
Chỉ 10 năm sau, Nokia dưới sự lãnh đạo của Kari Kairamo đã chuyển hướng mạnh mẽ sang ngành điện tử, dù vẫn duy trì hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh còn lại. Sự phát triển mạnh mẽ của Nokia giúp cho Phần Lan được so sánh với Nhật Bản, cường quốc về phát triển công nghệ tại thời điểm này. Nokia đã mua lại nhiều công ty bao gồm nhà sản xuất tivi Salora vào năm 1984, tiếp theo là nhà sản xuất máy tính và điện tử Thụy Điển Luxor AB năm 1985 và nhà sản xuất truyền hình Pháp Oceanic năm 1987. Điều này đã đưa Nokia trở thành nhà sản xuất TV lớn thứ ba của châu Âu trong những năm 80 của thế kỷ trước, chỉ sau Philips và Thomson.

Một chiếc TV được sản xuất bởi Nokia (Ảnh: Nokia)
Trong các quyết định mua lại của công ty, thương vụ sáng suốt nhất chính là Mobira - một công ty chuyên về sản xuất điện thoại di động thời điểm đó. Việc mua lại công ty này chính là nền tảng cho mảng kinh doanh điện thoại di động trong tương lai của hãng. Tại thời điểm mới mua lại, Nokia không mặn mà với Mobira như các mảng kinh doanh khác. Dù vậy, công ty con này vẫn có những bước đột phá trong ngành viễn thông tại khu vực châu Âu cũng như trên thế giới tại thời điểm bấy giờ.
Năm 1981, Mobira ra mắt dịch vụ Điện thoại Di động Bắc Âu (NMT), mạng di động đầu tiên trên thế giới cho phép chuyển vùng quốc tế. Một năm sau, Mobira ra mắt điện thoại Mobira Senator, điện thoại di động đầu tiên của Nokia.

Chiếc điện thoại Mobira Senator của Nokia (Ảnh: Nokia)
Đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, một cú sốc bất ngờ xảy ra với Nokia khi CEO Kairamo - người khởi xướng cho những thay đổi mạnh mẽ trong tập đoàn - tự sát vào một ngày mùa đông năm 1988. Sau cái chết của ông, Nokia đã phải đưa ra những cải tổ mạnh mẽ khi mà nền kinh tế Phần Lan rơi vào suy thoái, đồng thời nhiều mảng kinh doanh tỏ ra kém hiệu quả. Đầu tiên là mảng sản xuất cáp của công ty, sau đó là mảng sản xuất cao su đều được tách thành những doanh nghiệp riêng lẻ không có quan hệ với tập đoàn. Nokia cũng bán bộ phận máy tính của mình là Nokia Data cho ICL, một công ty công nghệ có trụ sở tại Vương quốc Anh. Mặc dù đây đều là những thương vụ đúng đắn trong tình cảnh công ty tại thời điểm đó, nhưng các nhà đầu tư không đánh giá cao điều này, khiến cổ phiếu Nokia giảm mạnh.
Phát triển mạnh mẽ nhờ ngành sản xuất điện thoại
Thời kỳ khủng hoảng của Nokia bắt đầu chấm dứt khi Jorma Ollila - người đứng đầu bộ phận điện thoại của tập đoàn - chính thức trở thành CEO vào năm 1992. Ông đã định hướng công ty đi theo định hướng điện tử viễn thông, mở ra trang mới trong lịch sử của tập đoàn này. Lợi nhuận hoạt động của công ty từ mức âm năm 1991 tăng lên 1 tỷ USD 4 năm sau đó và gần 4 tỷ USD vào năm 1999. Tháng 10/ 1998, Nokia chính thức vượt qua Motorola để trở thành thương hiệu điện thoại bán chạy nhất thế giới; 2 tháng sau đó, họ sản xuất chiếc điện thoại thứ 100 triệu của mình.
Một trong những lý do giúp cho Nokia trở nên khác biệt với các đối thủ là những thiết kế trẻ trung, đổi mới và khác biệt của họ nhắm trực tiếp vào các khách hàng trẻ tuổi. Nổi bật trong số đó là Nokia 5110, Nokia 3210 và Nokia 3310 với những thiết kế màu sắc, thời trang khác hẳn so với các sản phẩm của Motorola và Sony Ericsson, 2 đối thủ lớn nhất của họ thời đó. Ngoài ra, thương hiệu xa xỉ của hãng là Vertu cũng được thành lập, đem lại những sản phẩm sang trọng cho đối tượng doanh nhân.

Bộ ba điện thoại Nokia 5110, 3210 và 3310 theo thứ tự từ trái sang phải (Ảnh: Pinterest)
Tuy nhiên chỉ thiết kế thôi là chưa đủ để Nokia trở nên khác biệt hoàn toàn so với các đối thủ. Hệ điều hành Symbian được công ty phát triển thông qua công ty con cùng tên đem lại những trải nghiệm mới cho người dùng trên thiết bị di động, với những tính năng vô cùng độc đáo. Dù vậy, hệ điều hành này gây ra nhiều khó khăn cho các nhà phát triển ứng dụng với những hạn chế của mình.
Đến năm 2000, Nokia có hơn 55.000 nhân viên, hoạt động tại 140 quốc gia trên thế giới và chiếm 30% thị phần trên thị trường điện thoại di động, lớn gần gấp đôi so với đối thủ cạnh tranh gần nhất là Motorola. Từ năm 1996 đến 2001, doanh thu của Nokia đã tăng gấp 5 lần, từ 6,5 tỷ euro lên 31 tỷ euro.
Tiếp nối thành công
Không dừng lại với chỉ những thành công nêu trên, Nokia tiếp tục mang đến đột phá với những chiếc điện thoại chụp ảnh. Năm 2003, họ bán những chiếc điện thoại có chức năng chụp ảnh đầu tiên là Nokia 3600/3650 tại thị trường Bắc Mỹ.
Hai năm sau đó, Nokia bắt đầu hợp tác với nhà sản xuất máy ảnh quang học của Đức Carl Zeiss AG và cho ra mắt dòng điện thoại N-Series. Nokia N95 và Nokia N82 lần lượt đạt được giải thưởng "Thiết bị di động chụp ảnh tốt nhất" tại châu Âu trong các năm 2006 và 2008, đem lại thành công vang dội cho Nokia trên thị trường điện thoại di động.
Theo Genk