I. Fire Emblem Monshō no Nazo (Fire Emblem 3: bí ẩn dấu ấn lửa) bản tiếng Việt
Khái quát về dòng game Fire Emblem
Khái quát về phiên bản Fire Emblem Monshō no Nazo
Fire Emblem Monshō no nazo là phiên bản đầu tiên trên hệ máy SNES của series game Fire Emblem lừng danh. Hãng Nintendō chưa bao giờ phát hành bản Fire Emblem nào bằng ngôn ngữ khác ngoài tiếng Nhật. Đầu năm 2010, bản dịch Việt văn hoàn chỉnh đầu tiên của dòng game này đã ra đời. Monshō no nazo là một thiên anh hùng ca, đậm chất sử thi lãng mạng và bi tráng xoay quanh huyền thoại đau thương về chiếc khiên thần Fire Emblem.
Khuyến khích chơi game bằng giả lập Snes9X.
Hệ máy: Snes
Năm sản xuất: 1994
Hãng sản xuất: Nintendō
Thể loại: chiến thuật, nhập vai (RPG Simulation)
Giả lập khuyên dùng: Snes9x hoặc Bsnes
Video quảng cáo
[video=youtube;DlxBS5m8tZo]http://www.youtube.com/watch?v=DlxBS5m8tZo[/video]
Download
(một trong hai link đều được)
Khái quát về dòng game Fire Emblem
Fire Emblem (ファイアーエムブレム) là series game chiến thuật do Intelligent Systems phát triển và Nintendō phát hành. Fire Emblem còn được gọi tắt là FE, và ở Việt Nam nó còn được người hâm mộ gọi là “Mộc Đế”, hay “Mộc Đế Chiến Kỷ” (thuật bên dưới). Toàn bộ các phiên bản trong series đều thuộc thể loại Simulation RPG (SRPG).
Chiếc khiên Fire Emblem trong Monshō no Nazo
Theo nghĩa hẹp, Fire Emblem còn là từ dùng để chỉ những món Item có vẽ (hoặc khắc) hoa văn lửa, đóng vai trò quan trọng trong game. Nhiều khi món Item chỉ được gọi đơn giản là “Emblem”.
Khái yếu
Fire Emblem là tác phẩm đi tiên phong mở đường cho một thể loại game mà sau này được gọi là Simulation RPG. Gameplay của nó dựa trên nền tảng Famicom Wars, với hệ thống nhân vật (Unit) đa dạng, mỗi Unit lại có Class (binh chủng) khác nhau và các chỉ số năng lực, avatar khuôn mặt khác nhau. Game có những khái niệm của thể loại RPG như sự gia tăng các chỉ số năng lực của Unit trong quá trình chơi nhưng lại bỏ qua các yếu tố của thể loại PC RPG như sinh sản của nhân vật, khai thác và giữ tài nguyên. Một điểm đặc biệt của series FE là khái niệm “chết” của Unit. Trong khi phần lớn các game RPG Nhật đều có cách để cho nhân vật sống lại khi HP xuống mức zero (0) thì ở series FE, Unit có mức HP không được xem như đã chết và không thể hồi sinh (trừ một số trường hợp sử dụng Item đặc biệt), điều này giống thể loại Wars Simulation.
Từng nhân vật trong game đều có những đặc trưng và vai trò riêng biệt. Nếu những nhân vật cấp S “chết” đi thì sẽ ảnh hưởng xấu đến cục diện của trò chơi sau này, người chơi sẽ gặp nhiều tổn thất hoặc thậm chí không thể vượt qua nỗi những màn khó. Vì vậy người chơi FE thường hành động rất thận trọng sao cho không để chết một nhân Vật nào. Vì lẽ này mà ở Nhật, FE còn được gọi là game “Simulation khủng khiếp” (てごわいシミュレーション).
Một điểm chung nữa giữa các phiên bản trong series chính là thế giới Fantasy của nó với nền tảng là thời trung cổ ở Châu Âu. Nhân vật chính thường là một vị lãnh chúa (Lord) thừa hưởng dòng máu anh hùng cao quý nào đó, lãnh đạo đội kỵ sĩ chiến đấu chống lại kẻ địch Đế quốc, giành lại hòa bình cho đại lục. Các phiên bản trong series thường có một món Item quan trọng được gọi là Fire Emblem, ngoài ra còn có nhiều chủng tộc, sinh vật tưởng tượng như rồng, tiên…
Số lượng nhân vật cũng là một đặc điểm của series FE. Các phiên bản thường có vài chục nhân vật, điều này dẫn đến sự yêu thích/ghét đặc biệt một vài nhân vật nào đó trong tâm lý người chơi. Phong cách chơi FE cũng đa dạng, khác nhau theo từng người. Đa phần người chơi đều cố giữ cho toàn bộ nhân vật sống sót cho đến hết game, nhưng cũng có những người chơi theo lối khác như “luyện” toàn bộ nhân vật lên Max Level, hoàn tất game nhanh nhất, ít lượt chơi nhất, chơi không reset, chỉ sử dụng nhân vật nữ,… Tác phẩm đầu tiên trong series là Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no ken được phát hành trên hệ máy Nes. Từ đó đến nay series FE đã trải qua nhiều hệ máy khác nhau như Snes, Gameboy Advance, Game Cube, Wii và NDS. Ban đầu series FE chỉ được phát hành trong phạm vi nước Nhật, nhưng kể từ khi hai nhân vật trong series này xuất hiện trong game Super Smash Bros. Melee thì FE còn được người chơi khắp thế giới đón nhận.
Thương phẩm liên quan
Một đặc điểm nữa của dòng game FE là nó có rất nhiều thư tịch, thương phẩm ăn theo. Thống kê cho thấy Fire Emblem Seisen no Keifu có hơn 20 loại sách hướng dẫn khác nhau được bán ra. Ngoài ra còn có tiểu thuyết, truyện tranh và bản Anime Fire Emblem Monshō (OVA) được phát hành năm 1996. Bản Manga đầu tiên của FE chính là tác phẩm “Ai to Yūki to Farusion” (Tình yêu, lòng dũng cảm và thanh kiếm Falcion) của Sasaki Ryō (truyện tranh ngắn trong 4 khung), tạp chí Anthology Comic do Futaba xuất bản tháng 12 năm 1991. Tác phẩm này sau đó được Nintendō thừa nhận nên doanh số bán ra của tạp chí truyện tranh 4 khung này tăng rất nhanh. Đến thời kỳ Seisen no Keifu thì Anthology Comic có doanh số cao nhất, đến thời Thrakia 776 thì giảm mạnh và hoàn toàn không xuất bản khi sang thời Fūin no tsurugi. Về Manga có nội dung thì Gekkan ASUKA Fantasy DX (Nhà xuất bản Kadokawa) là tạp chí đầu tiên đăng tải nội dung ăn theo FE với tác phẩm của Sano Masaki và Watanabe Kyō năm 1992. Thời điểm hiện tại, tạp chí Gekkan Shōnen Jump (Nhà xuất bản Shūeisha) đang đăng tải tác phẩm Hasha no tsurugi (Nguyên tác: Isawa Hiroshi, vẽ tranh: Yamada Kōtarō). Ngoài ra còn có vô số tác phẩm Dōjin không chính thức ăn theo nội dung của FE.
Phát triển bên ngoài Nhật Bản
Trước khi Fire Emblem Fūin no tsurugi thì chính sách của Nintendō đối với dòng game FE chỉ là hướng đến đối tượng bên trong nước Nhật. Tuy nhiên nó cũng được một số ít người hâm mộ trên toàn Thế giới đón nhận, mặc dù cho đến lúc đó không có một phiên bản ngôn ngữ chính thức nào khác ngoài bản tiếng Nhật. Trong những năm gần đây đã thấy xuất hiện những bản patch (không chính thức) tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác để phục vụ trong những cộng đồng này.
Một cảnh trong bản patch tiếng Việt của Monshō no Nazo do Asm65816 dịch
Nhưng kể từ phiên bản Fire Emblem Rekka no ken trở đi thì FE đã được phát hành chính thức bên ngoài Nhật Bản. Sở dĩ có được điều này cũng là nhờ một phần lớn ở Super Smash Bros. Melee. Trong game này có hai nhân vật chính của series FE là Marusu (Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi) và Roy (trong Fire Emblem Fūin no tsurugi). Thời điểm phát hành game này thì FE chỉ được biết đến trong phạm vi nước Nhật. Đến khi chuẩn bị phát hành bản ngôn ngữ hải ngoại cho Super Smash Bros. Melee thì Nintendō dự định xóa đi hai nhân vật này. Tuy nhiên thiết kế nhân vật của Marusu và Roy rất đạt, chiếm được cảm tình của người chơi nên Nintendō đã để nguyên hai nhân vật này trong phiên bản hải ngoại của Smash Bros. Kết quả là từ đó trở đi, FE được người chơi khắp nơi trên Thế giới biết đến. Và cũng vì vậy nên hai nhân vật này chỉ được lồng tiếng Nhật trong phiên bản hải ngoại của Smash Bros. Trong phiên bản tiếp theo của Super Smash Bros. Melee là Super Smash Bros. Brawl lại thấy xuất hiện nhân vật Ike (Fire Emblem Sōen no Kiseki, bản tiếng Anh được đặt tên là Path of Radiance) và được lồng tiếng địa phương ở từng phiên bản ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên nhân vật Marusu trong phiên bản Smash Bros. Brawl này cũng chỉ nói tiếng Nhật. Và trước khi Smash Bros. Melee được phát hành thì Anime Monshō no Nazo OVA cũng đã được phát hành tại Bắc Mỹ . Và kể từ phiên bản Fūin no tsurugi, các phiên bản như Rekka no ken, Seima Kōseki đã được một lượng người hâm mộ nhất định trên Thế giới biết định nên Nintendō đã thay đổi chủ trương, quyết định đầu tư nhiều hơn vào dòng game này. Phiên bản hải ngoại của Rekka no ken và Fire Emblem Akatsuki no Megami cũng có nhiều điểm dị biệt mà trong bản tiếng Nhật không có.
Tên gọi
Tên gọi Fire Emblem của series game được phiên âm sang tiếng Nhật là “Faiā Emuburemu”, được viết là ファイアーエムブレム nhưng cũng có khi nó bị viết nhầm thành ファイヤーエムブレム, ファイアーエンブレム, ファイヤーエンブレム, …
Fire Emblem chính là cách gọi theo kiểu tiếng Anh của cụm từ tiếng Nhật “Honoo no monshō”, thường được dịch sang tiếng Việt là “hoa văn lửa” (bản dịch Như Thị Ngã Văn), “dấu ấn lửa” (bản dịch Asm65816). Cộng đồng gamer Việt thường gọi series game này bằng cái tên “Mộc Đế Chiến Kỷ” hay đơn giản là “Mộc Đế”. Nguồn gốc của cách gọi này vẫn chưa được xác minh, nhưng theo giả thuyết của một người tên Như Thị Ngã Văn thì cách gọi tên này xuất phát từ những điểm sau:
* Phiên bản Fire Emblem đầu tiên được biết đến rộng rãi tại Việt Nam chính là Monshō no Nazo (phát hành năm 1994) trên hệ máy Super Famicom. Mặc dù Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi là phiên bản đầu tiên trong series,nhưng nó được phát hành trên máy Famicom và ít thông dụng tại Việt Nam lúc bấy giờ.
* Trước khi FE Monshō no Nazo được phát hành (1994) thì hãng Enix (hiện giờ là Square Enix) đã phát hành game chiến thuật theo lượt Jutei Senki (樹帝戦記) trên máy Super Famicom. Jutei Senki là cách đọc Hán-Nhật của chữ Hán樹帝戦記, nếu đọc theo Hán-Việt sẽ là “thụ đế chiến ký”. Chữ “thụ” (樹)và chữ “mộc” (木) tuy viết khác nhau nhưng nghĩa gần nhau nên thường bị nhầm lẫn với nhau. Chữ “ký” và “kỷ” , nếu viết chữ Hán sẽ khác nhau nhiều. Nhưng khi biểu ký bằng mẫu tự La Tinh thì lại dễ nhầm lẫn với nhau (giữa dấu sắc và dấu ngã), nhất là khi viết tháu. Đương thời, kinh doanh quán video game là một hoạt động rất phổ biến trong xã hội. Nhiều quán game soạn sẵn một bảng danh sách những game mình có để khách đến chơi có thể yêu cầu. Danh sách này thường được viết tay và như vậy, rất có thể Jutei Senki (thụ đế chiến ký), một trong những game nhập lậu theo ngã Trung Quốc lúc bấy giờ đã trở thành “Mộc Đế Chiến Kỷ” theo cách đó. Nhiều địa phương trong nước còn gọi Jutei Senki là “Mộc Đế 1”.
* Đương thời, ý thức phân biệt thể loại game trong cộng đồng gamer Việt hầu như chưa có. Có rất nhiều thể loại chiến thuật nhưng chúng chỉ được gọi chung là “dàn trận”; thể loại thể thao thường được gọi bằng tên của chính môn thể thao đó như “đá banh”, “đá bóng”,…; thể loại đối kháng thường được gọi ngắn gọn là “đánh nhau”, “đánh lộn”, “đấu võ”. Thói quen gọi này còn kéo dài đến bây giờ. Chính vì thế, tuy Jutei Senki và Fire Emblem thuộc hai kiểu chiến thuật khác nhau nhưng tựu trung đã bị đánh đồng thành “dàn trận” trong ý thức của gamer Việt đương thời.
* Chiến thuật là một thể loại mới mẻ đối với cộng đồng gamer Việt lúc đó vốn chỉ quen với hành động, phiêu lưu, thể thao và đối kháng. Và Jutei Senki là game mở đầu cho thể loại chiến thuật trong ý thức của gamer Việt.
* Một năm sau, Fire Emblem Monshō no Nazo xuất hiện. Nó cũng thuộc thể loại chiến thuật nên có lẽ đã bị ý thức của gamer Việt đánh đồng với Jutei Senki và được xem như một phiên bản tiếp theo của Jutei Senki (được gọi là Mộc Đế Chiến Kỷ đương thời). Vì lẽ này mà một số địa phương ở miền Trung, Fire Emblem Monshō no Nazo còn được gọi là “Mộc Đế 2”.
Vì những lẽ trên, các phiên bản tiếp theo trong series Fire Emblem luôn được gọi là “Mộc Đế Chiến Kỷ” hay “Mộc Đế” kèm theo số thứ tự. Chẳng hạn Seisen no Keifu được gọi là “Mộc Đế 4”, Thracia 776 được gọi là “Mộc Đế 5”,… Cũng cần phải nói thêm rằng đương thời, người Việt chưa có điều kiện tiếp xúc với Internet nên rất khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin bên ngoài. Vì thế người ta không dễ gì biết được tên gốc của một video game trên thị trường. Do đó gamer Việt có thói quen gọi tên game theo cách Việt hóa của mình. Thói quen này vẫn còn kéo dài đến ngày nay, dù đã giảm đi nhiều.
Các phiên bản trong series
※Ý nghĩa của những từ viết tắt: FC=Famicom, SFC=Super Famicom, GBA=Game Boy Advance, GC=Game Cube, DS=NDS.
* Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (FC: 20/04/1990, Wii Virtual Console:20/10/2009) Còn được gọi là FE 1 vì đây là phiên bản đầu tiên trong series.
* Fire Emblem Gaiden (FC: 14/03/1992, Wii Virtual Console: 04/11/2009)
* Fire Emblem Monshō no Nazo (SFC: 21/01/1994, Wii Virtual Console: 26/12/2006) Còn được gọi là FE 3 vì thứ tự xuất hiện của nó trong series. Kể từ phiên bản này trở đi, tên gọi FE đã được đánh số.
* Fire Emblem Akania Senki (SFC/Satella View: 29/09/1997)
* Fire Emblem Seisen no Keifu (SFC: 14/05/1996, Wii Virtual Console: 30/01/2007)
* Fire Emblem Thracia 776 (SFC/Nintendō Power:01/09/1999, SFC/ROM Cassette: 21/01/200, Wii Virtual Console: 15/07/2008)
* Fire Emblem Fūin no tsurugi (GBA: 22/03/2002)
* Fire Emblem Rekka no ken (GBA: 25/03/2003)
* Fire Emblem Seima Kōseki (GBA: 07/10/2004)
* Fire Emblem Seima Sōen no Kiseki (GC: 20/04/2005)
* Fire Emblem Akatsuki no Megami (Wii:22/02/2007)
* Fire Emblem Shin Ankoku Ryū to Hikari no ken (DS: 07/08/2008)]
Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi là bản remake của Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (Nes) với nhiều yếu tố mới, và đây cũng là lần đầu tiên bối cảnh đại lục Akania trong thế giới FE được gamer bên ngoài Nhật Bản biết đến một cách chính thức.
Ý nghĩa Fire Emblem
Mọi phiên bản trong series đều có tiêu đề Fire Emblem. Nó là vật có tính cách tượng trưng và xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau trong các phiên bản. Fire Emblem là vật tồn tại thật ở đại lục Akania (Monshō no Nazo), Eleb (Fūin no tsurugi), Magi Vaul (Seima Kōseki) và Terius (Sōen no Kiseki). Nó là vật chí bảo của các vương gia và là chìa khóa quan trọng trong game. Nó xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Chỉ riêng ở phiên bản Seisen no Keifu thì Fire Emblem chỉ được nhắc đến như là gia huy của một nhà công tước và không liên quan trực tiếp đến cốt truyện. Trong Ankoku Ryū to Hikari và Monshō no Nazo thì Fire Emblem là chiếc khiên gia bảo của vương gia Akania, là nền của chiếc khiên phong ấn. Trong Fūin no tsurugi, Rekka no ken, nó là vật chí bảo của vương quốc Berun, là chìa khóa phong ấn ma long. Trong Seima Kōseki thì nó lại là viên đá phong ấn ma vương thời cổ đại của Đế quốc Glado. Trong Sōen no Kiseki, Akatsuki no Megami thì nó chí là chiếc mề đay đồng để phong ấn tà thần.
Thế giới quan
Mọi phiên bản trong series đều mô tả về cuộc chiến giữa các quốc gia, nhưng bối cảnh ở mỗi phiên bản lại khác nhau. Ở Ankoku Ryū to Hikari và Monshō no Nazo thì bối cảnh là đại lục Akania, trong Fire Emblem Gaiden là đại lục Valencia, trong Seisen no Keifu, Thracia 776 là đại lục Jugdral, trong Fūin no tsurugi, Rekka no ken thì đó là đại lục Eleb, trong Seima Kōseki là đại lục Magi Vaul và trong Sōen no Kiseki, Akatsuki no Megami là đại lục Terius.
Theo cha đẻ của Fire Emblem, ông Kaga Shōzō thì giữa ba đại lục Akania, Valencia và Jugdral có mối liên hệ với nhau về không. Về thời gian thì vào năm 740 lịch Akania, trong cuộc chiến của thần bảo hộ Narga (trước thời điểm của Monshō no Nazo 1350 năm) thì tư tế Gale từ đại lục Jugdral đã đến Akania uống máu Hắc ám long (lịch Gran năm 440, trước thời điểm của Seisen no Keifu 320 năm)
Chủng tộc
Về cơ bản, series Fire Emblem xoay quanh cuộc chiến giữa các quốc gia loài người, nhưng đằng sau đó luôn có những chủng tộc phi nhân tồn tại và nằm giữ chìa khóa của game. Một đại diện cho những chủng tộc này là Mamkut (マムクート), tộc nửa người nửa rồng xuất hiện trong nhiều phiên bản của series. Chủng tộc này mang hình hài con người nhưng có năng lực hóa thân thành các loại rồng, và tùy vào phiên bản mà sức mạnh của Mamkut cũng khác nhau (cũng có phiên bản Mamkut không xuất hiện). Trong hai phiên bản Sōen no Kiseki, Akatsuki no Megami thì Mamkut được thay bằng chủng tộc Laguz (ラグズ), cũng có năng lực hóa rồng như Mamkut. Ngoài ra còn có những nhân vật có khả năng hóa chim và thú.
Game Play
Mỗi màn chơi của Fire Emblem diễn ra trên một map được chia thành từng ô nhỏ, người chơi điều khiển từng Unit thông qua một bảng menu gồm nhiều command như di chuyển, tấn công, sử dụng Item…. Người chơi và máy mỗi bên hành động một lượt thay phiên nhau. Mục đích cũng rất đa dạng, từ việc chiếm thành địch, chiếm ngai vàng ở từng màn cho đến việc tiêu diệt hết quân địch, phòng vệ trong một số lượt (turn) nhất định để qua màn. Ngược lại, nếu nhân vật chính “chết” thì người chơi thua. Từ phiên bản Thracia 776 trở đi thì FE đã có thêm yếu tố mới là người chơi không thể xác nhận bước đi, hành động của quân địch trong những màn có sương mù hay ban đêm. Ở những màn này, người chơi cũng không thể thấy hết toàn thể map mà chỉ thấy được một phần nhỏ quanh vị trí của nhân vật. Hệ thống chiến đấu và nhân vật của FE có những nét tương đồng với những game RPG khác. Mỗi nhân vật được thiết lập mặc định ban đầu ở một class nào đó và các chỉ số năng lực nhất định. Thông qua việc chiến đấu hoặc sử dụng ma thuật hỗ trợ đồng đội, nhân vật nhận được điểm kinh nghiệm (exp), khi điểm này đủ 100 thì nhân vật tăng lên cấp độ (level) mới và các chỉ số năng lực như sức mạnh, phòng ngự… cũng được tăng một cách ngẫu nhiên. Khi đã đạt tới cấp độ nhất định nào đó (khác nhau tùy phiên bản) thì nhân vật có thể Classchange, chuyển sang một loại binh chủng khác mạnh hơn so với binh chủng hiện tại. Classchange là một yếu tố quan trọng trong mọi phiên bản FE. Nó giúp nhân vật trở nên mạnh hơn và đôi khi có thêm những khả năng giải quyết chìa khóa của game. Tuy nhiên cũng có những nhân vật không thể Classchange tồn tại trong FE.
Binh chủng và vũ khí
FE có rất nhiều loại binh chủng, mỗi loại có những ưu khuyết điểm riêng nhưng nhìn chung, mọi phiên bản đều có binh chủng Lord, kỵ binh, long kỵ binh, giáp trụ, ma đạo sĩ, nữ tu, cung binh, kiếm sĩ… Trong khi các loại binh chủng khác có thể có nhiều nhân vật nhưng riêng binh chủng Lord và một số binh chủng đặc thù như Hắc ám long, Địa long,… thì chỉ có một (hoặc vài, tùy phiên bản) nhân vật duy nhất. Nhân vật chính của game luôn được thiết lập ở binh chủng Lord (Seisen no Keifu có nhân vật chính ở binh chủng Lord Knight).
Cách tấn công của các loại binh chủng trong FE thường được chia làm 3 loại như sau:
* Tấn công trực tiếp: những loại binh chủng này thường là kỵ binh, kiếm sĩ, giáp binh,…. Đặc điểm của các nhóm binh chủng này là có thể tấn công và phản công trực tiếp khi được đặt ở vị trí tiếp cận đối phương và được trang bị vũ khí để tấn công.
* Tấn công gián tiếp: những loại binh chủng này thường là cung binh, cung kỵ binh. Đặc điểm của nhóm binh chủng này là có thể tấn công gián tiếp đối phương. Lợi điểm là không bị đối phương (nếu đối phương thuộc nhóm tấn công trực tiếp) phản đòn nhưng cũng có nhược điểm là không thể phản công khi bị tấn công trực tiếp.
* Tấn công trực tiếp và gián tiếp: nhóm binh chủng này thường là các pháp sư, ma đạo sĩ, tư tế… Nhóm này có khả năng tấn công cả trực tiếp và gián tiếp.
Mỗi loại vũ khí thông thường trong FE đều có giới hạn số lần sử dụng. Khi chiến đấu, số này giảm xuống và vũ khí sẽ hỏng khi số xuống 0. Vũ khí hỏng mang lại nhiều bất lợi cho nhân vật như lực tấn công xuống thấp, tốc độ tấn công chậm, khó tránh né đòn tấn công của địch… Nhưng các phiên bản FE luôn có những món Item hoặc phương cách để “đại tu” lại những món vũ khí sắp hết “hạn sử dụng”. Bắt đầu từ phiên bản Seisen no Keifu trở đi thì vũ khí trong FE đã có thêm khái niệm “bao búa kéo”. Tức là loại vũ khi A tương khắc vũ khí B, B tương khắc C và C tương khắc A. Các loại sách ma thuật cũng tương tự. Một số loại vũ khí đặc biệt còn được phát huy thêm sức mạnh khi được dùng để tấn công một số binh chủng đặc thù.
Cách tính toán
Cách tính toán độ sát thương, tần số xuất hiện skill… ở FE khác nhau tùy từng phiên bản. Nhưng có những cách tính cơ bản hầu như không thay đổi như sau:
* Chỉ số năng lực của một nhân vật (trừ HP) là tổ hợp gồm chỉ số cơ bản của binh chủng của nhân vật và chỉ số của bản thân nhân vật.
* Chỉ số sức mạnh khi tấn công của nhân vật là tổ hợp gồm chỉ số sức mạnh cơ bản của binh chủng + chỉ số sức mạnh cơ bản của nhân vật + chỉ số sức mạnh (uy lực) của vũ khí. Chỉ số phòng ngự cũng được tính theo cách tương tự.
* Số HP sát thương do nhân vật gây ra trên đối phương = tổng hợp các chỉ số sức mạnh của nhân vật – tổng hợp các chỉ số phòng ngự của đối phương.
Ngoài ra còn nhiều chỉ số khác như tốc độ tấn công, chỉ số tất sát… nhưng cách tính ở mỗi bản lại khác nhau. Tốc độ tấn công ảnh hưởng đến khả năng tấn công nhiều lần trong một ván đấu và khả năng tránh né đòn của nhân vật. Tất sát là khái niệm nhân vật ra đòn mạnh hơn bình thường (thường là gấp 3 lần) và xuất hiện ngẫu nhiên. Tần số xuất hiện tất sát cũng có cách tính của riêng nó, nhưng khác nhau giữa các phiên bản. Kể từ phiên bản Seisen no Keifu trở đi thì FE đã có thêm khái niệm Skill. Mỗi nhân vật đều có một hoặc vài kỹ năng nhất định. Những kỹ năng này có tác dụng hỗ trợ chiến đấu hoặc hỗ trợ đồng đội và chúng đóng một vai trò quan trọng trong chiến thuật của người chơi. Cách tính tần suất phát động Skill cũng có cách tính riêng biệt.
Liên kết ngoài
Trang chủ Fire Emblem World
Fire Emblem tiếng Việt trên Youtube
Chiếc khiên Fire Emblem trong Monshō no Nazo

Theo nghĩa hẹp, Fire Emblem còn là từ dùng để chỉ những món Item có vẽ (hoặc khắc) hoa văn lửa, đóng vai trò quan trọng trong game. Nhiều khi món Item chỉ được gọi đơn giản là “Emblem”.
Khái yếu
Fire Emblem là tác phẩm đi tiên phong mở đường cho một thể loại game mà sau này được gọi là Simulation RPG. Gameplay của nó dựa trên nền tảng Famicom Wars, với hệ thống nhân vật (Unit) đa dạng, mỗi Unit lại có Class (binh chủng) khác nhau và các chỉ số năng lực, avatar khuôn mặt khác nhau. Game có những khái niệm của thể loại RPG như sự gia tăng các chỉ số năng lực của Unit trong quá trình chơi nhưng lại bỏ qua các yếu tố của thể loại PC RPG như sinh sản của nhân vật, khai thác và giữ tài nguyên. Một điểm đặc biệt của series FE là khái niệm “chết” của Unit. Trong khi phần lớn các game RPG Nhật đều có cách để cho nhân vật sống lại khi HP xuống mức zero (0) thì ở series FE, Unit có mức HP không được xem như đã chết và không thể hồi sinh (trừ một số trường hợp sử dụng Item đặc biệt), điều này giống thể loại Wars Simulation.
Từng nhân vật trong game đều có những đặc trưng và vai trò riêng biệt. Nếu những nhân vật cấp S “chết” đi thì sẽ ảnh hưởng xấu đến cục diện của trò chơi sau này, người chơi sẽ gặp nhiều tổn thất hoặc thậm chí không thể vượt qua nỗi những màn khó. Vì vậy người chơi FE thường hành động rất thận trọng sao cho không để chết một nhân Vật nào. Vì lẽ này mà ở Nhật, FE còn được gọi là game “Simulation khủng khiếp” (てごわいシミュレーション).
Một điểm chung nữa giữa các phiên bản trong series chính là thế giới Fantasy của nó với nền tảng là thời trung cổ ở Châu Âu. Nhân vật chính thường là một vị lãnh chúa (Lord) thừa hưởng dòng máu anh hùng cao quý nào đó, lãnh đạo đội kỵ sĩ chiến đấu chống lại kẻ địch Đế quốc, giành lại hòa bình cho đại lục. Các phiên bản trong series thường có một món Item quan trọng được gọi là Fire Emblem, ngoài ra còn có nhiều chủng tộc, sinh vật tưởng tượng như rồng, tiên…
Số lượng nhân vật cũng là một đặc điểm của series FE. Các phiên bản thường có vài chục nhân vật, điều này dẫn đến sự yêu thích/ghét đặc biệt một vài nhân vật nào đó trong tâm lý người chơi. Phong cách chơi FE cũng đa dạng, khác nhau theo từng người. Đa phần người chơi đều cố giữ cho toàn bộ nhân vật sống sót cho đến hết game, nhưng cũng có những người chơi theo lối khác như “luyện” toàn bộ nhân vật lên Max Level, hoàn tất game nhanh nhất, ít lượt chơi nhất, chơi không reset, chỉ sử dụng nhân vật nữ,… Tác phẩm đầu tiên trong series là Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no ken được phát hành trên hệ máy Nes. Từ đó đến nay series FE đã trải qua nhiều hệ máy khác nhau như Snes, Gameboy Advance, Game Cube, Wii và NDS. Ban đầu series FE chỉ được phát hành trong phạm vi nước Nhật, nhưng kể từ khi hai nhân vật trong series này xuất hiện trong game Super Smash Bros. Melee thì FE còn được người chơi khắp thế giới đón nhận.
Thương phẩm liên quan
Một đặc điểm nữa của dòng game FE là nó có rất nhiều thư tịch, thương phẩm ăn theo. Thống kê cho thấy Fire Emblem Seisen no Keifu có hơn 20 loại sách hướng dẫn khác nhau được bán ra. Ngoài ra còn có tiểu thuyết, truyện tranh và bản Anime Fire Emblem Monshō (OVA) được phát hành năm 1996. Bản Manga đầu tiên của FE chính là tác phẩm “Ai to Yūki to Farusion” (Tình yêu, lòng dũng cảm và thanh kiếm Falcion) của Sasaki Ryō (truyện tranh ngắn trong 4 khung), tạp chí Anthology Comic do Futaba xuất bản tháng 12 năm 1991. Tác phẩm này sau đó được Nintendō thừa nhận nên doanh số bán ra của tạp chí truyện tranh 4 khung này tăng rất nhanh. Đến thời kỳ Seisen no Keifu thì Anthology Comic có doanh số cao nhất, đến thời Thrakia 776 thì giảm mạnh và hoàn toàn không xuất bản khi sang thời Fūin no tsurugi. Về Manga có nội dung thì Gekkan ASUKA Fantasy DX (Nhà xuất bản Kadokawa) là tạp chí đầu tiên đăng tải nội dung ăn theo FE với tác phẩm của Sano Masaki và Watanabe Kyō năm 1992. Thời điểm hiện tại, tạp chí Gekkan Shōnen Jump (Nhà xuất bản Shūeisha) đang đăng tải tác phẩm Hasha no tsurugi (Nguyên tác: Isawa Hiroshi, vẽ tranh: Yamada Kōtarō). Ngoài ra còn có vô số tác phẩm Dōjin không chính thức ăn theo nội dung của FE.
Phát triển bên ngoài Nhật Bản
Trước khi Fire Emblem Fūin no tsurugi thì chính sách của Nintendō đối với dòng game FE chỉ là hướng đến đối tượng bên trong nước Nhật. Tuy nhiên nó cũng được một số ít người hâm mộ trên toàn Thế giới đón nhận, mặc dù cho đến lúc đó không có một phiên bản ngôn ngữ chính thức nào khác ngoài bản tiếng Nhật. Trong những năm gần đây đã thấy xuất hiện những bản patch (không chính thức) tiếng Anh, tiếng Hoa, tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác để phục vụ trong những cộng đồng này.
Một cảnh trong bản patch tiếng Việt của Monshō no Nazo do Asm65816 dịch

Nhưng kể từ phiên bản Fire Emblem Rekka no ken trở đi thì FE đã được phát hành chính thức bên ngoài Nhật Bản. Sở dĩ có được điều này cũng là nhờ một phần lớn ở Super Smash Bros. Melee. Trong game này có hai nhân vật chính của series FE là Marusu (Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi) và Roy (trong Fire Emblem Fūin no tsurugi). Thời điểm phát hành game này thì FE chỉ được biết đến trong phạm vi nước Nhật. Đến khi chuẩn bị phát hành bản ngôn ngữ hải ngoại cho Super Smash Bros. Melee thì Nintendō dự định xóa đi hai nhân vật này. Tuy nhiên thiết kế nhân vật của Marusu và Roy rất đạt, chiếm được cảm tình của người chơi nên Nintendō đã để nguyên hai nhân vật này trong phiên bản hải ngoại của Smash Bros. Kết quả là từ đó trở đi, FE được người chơi khắp nơi trên Thế giới biết đến. Và cũng vì vậy nên hai nhân vật này chỉ được lồng tiếng Nhật trong phiên bản hải ngoại của Smash Bros. Trong phiên bản tiếp theo của Super Smash Bros. Melee là Super Smash Bros. Brawl lại thấy xuất hiện nhân vật Ike (Fire Emblem Sōen no Kiseki, bản tiếng Anh được đặt tên là Path of Radiance) và được lồng tiếng địa phương ở từng phiên bản ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên nhân vật Marusu trong phiên bản Smash Bros. Brawl này cũng chỉ nói tiếng Nhật. Và trước khi Smash Bros. Melee được phát hành thì Anime Monshō no Nazo OVA cũng đã được phát hành tại Bắc Mỹ . Và kể từ phiên bản Fūin no tsurugi, các phiên bản như Rekka no ken, Seima Kōseki đã được một lượng người hâm mộ nhất định trên Thế giới biết định nên Nintendō đã thay đổi chủ trương, quyết định đầu tư nhiều hơn vào dòng game này. Phiên bản hải ngoại của Rekka no ken và Fire Emblem Akatsuki no Megami cũng có nhiều điểm dị biệt mà trong bản tiếng Nhật không có.
Tên gọi
Tên gọi Fire Emblem của series game được phiên âm sang tiếng Nhật là “Faiā Emuburemu”, được viết là ファイアーエムブレム nhưng cũng có khi nó bị viết nhầm thành ファイヤーエムブレム, ファイアーエンブレム, ファイヤーエンブレム, …
Fire Emblem chính là cách gọi theo kiểu tiếng Anh của cụm từ tiếng Nhật “Honoo no monshō”, thường được dịch sang tiếng Việt là “hoa văn lửa” (bản dịch Như Thị Ngã Văn), “dấu ấn lửa” (bản dịch Asm65816). Cộng đồng gamer Việt thường gọi series game này bằng cái tên “Mộc Đế Chiến Kỷ” hay đơn giản là “Mộc Đế”. Nguồn gốc của cách gọi này vẫn chưa được xác minh, nhưng theo giả thuyết của một người tên Như Thị Ngã Văn thì cách gọi tên này xuất phát từ những điểm sau:
* Phiên bản Fire Emblem đầu tiên được biết đến rộng rãi tại Việt Nam chính là Monshō no Nazo (phát hành năm 1994) trên hệ máy Super Famicom. Mặc dù Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi là phiên bản đầu tiên trong series,nhưng nó được phát hành trên máy Famicom và ít thông dụng tại Việt Nam lúc bấy giờ.
* Trước khi FE Monshō no Nazo được phát hành (1994) thì hãng Enix (hiện giờ là Square Enix) đã phát hành game chiến thuật theo lượt Jutei Senki (樹帝戦記) trên máy Super Famicom. Jutei Senki là cách đọc Hán-Nhật của chữ Hán樹帝戦記, nếu đọc theo Hán-Việt sẽ là “thụ đế chiến ký”. Chữ “thụ” (樹)và chữ “mộc” (木) tuy viết khác nhau nhưng nghĩa gần nhau nên thường bị nhầm lẫn với nhau. Chữ “ký” và “kỷ” , nếu viết chữ Hán sẽ khác nhau nhiều. Nhưng khi biểu ký bằng mẫu tự La Tinh thì lại dễ nhầm lẫn với nhau (giữa dấu sắc và dấu ngã), nhất là khi viết tháu. Đương thời, kinh doanh quán video game là một hoạt động rất phổ biến trong xã hội. Nhiều quán game soạn sẵn một bảng danh sách những game mình có để khách đến chơi có thể yêu cầu. Danh sách này thường được viết tay và như vậy, rất có thể Jutei Senki (thụ đế chiến ký), một trong những game nhập lậu theo ngã Trung Quốc lúc bấy giờ đã trở thành “Mộc Đế Chiến Kỷ” theo cách đó. Nhiều địa phương trong nước còn gọi Jutei Senki là “Mộc Đế 1”.
* Đương thời, ý thức phân biệt thể loại game trong cộng đồng gamer Việt hầu như chưa có. Có rất nhiều thể loại chiến thuật nhưng chúng chỉ được gọi chung là “dàn trận”; thể loại thể thao thường được gọi bằng tên của chính môn thể thao đó như “đá banh”, “đá bóng”,…; thể loại đối kháng thường được gọi ngắn gọn là “đánh nhau”, “đánh lộn”, “đấu võ”. Thói quen gọi này còn kéo dài đến bây giờ. Chính vì thế, tuy Jutei Senki và Fire Emblem thuộc hai kiểu chiến thuật khác nhau nhưng tựu trung đã bị đánh đồng thành “dàn trận” trong ý thức của gamer Việt đương thời.
* Chiến thuật là một thể loại mới mẻ đối với cộng đồng gamer Việt lúc đó vốn chỉ quen với hành động, phiêu lưu, thể thao và đối kháng. Và Jutei Senki là game mở đầu cho thể loại chiến thuật trong ý thức của gamer Việt.
* Một năm sau, Fire Emblem Monshō no Nazo xuất hiện. Nó cũng thuộc thể loại chiến thuật nên có lẽ đã bị ý thức của gamer Việt đánh đồng với Jutei Senki và được xem như một phiên bản tiếp theo của Jutei Senki (được gọi là Mộc Đế Chiến Kỷ đương thời). Vì lẽ này mà một số địa phương ở miền Trung, Fire Emblem Monshō no Nazo còn được gọi là “Mộc Đế 2”.
Vì những lẽ trên, các phiên bản tiếp theo trong series Fire Emblem luôn được gọi là “Mộc Đế Chiến Kỷ” hay “Mộc Đế” kèm theo số thứ tự. Chẳng hạn Seisen no Keifu được gọi là “Mộc Đế 4”, Thracia 776 được gọi là “Mộc Đế 5”,… Cũng cần phải nói thêm rằng đương thời, người Việt chưa có điều kiện tiếp xúc với Internet nên rất khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin bên ngoài. Vì thế người ta không dễ gì biết được tên gốc của một video game trên thị trường. Do đó gamer Việt có thói quen gọi tên game theo cách Việt hóa của mình. Thói quen này vẫn còn kéo dài đến ngày nay, dù đã giảm đi nhiều.
Các phiên bản trong series
※Ý nghĩa của những từ viết tắt: FC=Famicom, SFC=Super Famicom, GBA=Game Boy Advance, GC=Game Cube, DS=NDS.
* Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (FC: 20/04/1990, Wii Virtual Console:20/10/2009) Còn được gọi là FE 1 vì đây là phiên bản đầu tiên trong series.
* Fire Emblem Gaiden (FC: 14/03/1992, Wii Virtual Console: 04/11/2009)
* Fire Emblem Monshō no Nazo (SFC: 21/01/1994, Wii Virtual Console: 26/12/2006) Còn được gọi là FE 3 vì thứ tự xuất hiện của nó trong series. Kể từ phiên bản này trở đi, tên gọi FE đã được đánh số.
* Fire Emblem Akania Senki (SFC/Satella View: 29/09/1997)
* Fire Emblem Seisen no Keifu (SFC: 14/05/1996, Wii Virtual Console: 30/01/2007)
* Fire Emblem Thracia 776 (SFC/Nintendō Power:01/09/1999, SFC/ROM Cassette: 21/01/200, Wii Virtual Console: 15/07/2008)
* Fire Emblem Fūin no tsurugi (GBA: 22/03/2002)
* Fire Emblem Rekka no ken (GBA: 25/03/2003)
* Fire Emblem Seima Kōseki (GBA: 07/10/2004)
* Fire Emblem Seima Sōen no Kiseki (GC: 20/04/2005)
* Fire Emblem Akatsuki no Megami (Wii:22/02/2007)
* Fire Emblem Shin Ankoku Ryū to Hikari no ken (DS: 07/08/2008)]
Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi là bản remake của Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (Nes) với nhiều yếu tố mới, và đây cũng là lần đầu tiên bối cảnh đại lục Akania trong thế giới FE được gamer bên ngoài Nhật Bản biết đến một cách chính thức.
Ý nghĩa Fire Emblem
Mọi phiên bản trong series đều có tiêu đề Fire Emblem. Nó là vật có tính cách tượng trưng và xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau trong các phiên bản. Fire Emblem là vật tồn tại thật ở đại lục Akania (Monshō no Nazo), Eleb (Fūin no tsurugi), Magi Vaul (Seima Kōseki) và Terius (Sōen no Kiseki). Nó là vật chí bảo của các vương gia và là chìa khóa quan trọng trong game. Nó xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Chỉ riêng ở phiên bản Seisen no Keifu thì Fire Emblem chỉ được nhắc đến như là gia huy của một nhà công tước và không liên quan trực tiếp đến cốt truyện. Trong Ankoku Ryū to Hikari và Monshō no Nazo thì Fire Emblem là chiếc khiên gia bảo của vương gia Akania, là nền của chiếc khiên phong ấn. Trong Fūin no tsurugi, Rekka no ken, nó là vật chí bảo của vương quốc Berun, là chìa khóa phong ấn ma long. Trong Seima Kōseki thì nó lại là viên đá phong ấn ma vương thời cổ đại của Đế quốc Glado. Trong Sōen no Kiseki, Akatsuki no Megami thì nó chí là chiếc mề đay đồng để phong ấn tà thần.
Thế giới quan
Mọi phiên bản trong series đều mô tả về cuộc chiến giữa các quốc gia, nhưng bối cảnh ở mỗi phiên bản lại khác nhau. Ở Ankoku Ryū to Hikari và Monshō no Nazo thì bối cảnh là đại lục Akania, trong Fire Emblem Gaiden là đại lục Valencia, trong Seisen no Keifu, Thracia 776 là đại lục Jugdral, trong Fūin no tsurugi, Rekka no ken thì đó là đại lục Eleb, trong Seima Kōseki là đại lục Magi Vaul và trong Sōen no Kiseki, Akatsuki no Megami là đại lục Terius.
Theo cha đẻ của Fire Emblem, ông Kaga Shōzō thì giữa ba đại lục Akania, Valencia và Jugdral có mối liên hệ với nhau về không. Về thời gian thì vào năm 740 lịch Akania, trong cuộc chiến của thần bảo hộ Narga (trước thời điểm của Monshō no Nazo 1350 năm) thì tư tế Gale từ đại lục Jugdral đã đến Akania uống máu Hắc ám long (lịch Gran năm 440, trước thời điểm của Seisen no Keifu 320 năm)
Chủng tộc
Về cơ bản, series Fire Emblem xoay quanh cuộc chiến giữa các quốc gia loài người, nhưng đằng sau đó luôn có những chủng tộc phi nhân tồn tại và nằm giữ chìa khóa của game. Một đại diện cho những chủng tộc này là Mamkut (マムクート), tộc nửa người nửa rồng xuất hiện trong nhiều phiên bản của series. Chủng tộc này mang hình hài con người nhưng có năng lực hóa thân thành các loại rồng, và tùy vào phiên bản mà sức mạnh của Mamkut cũng khác nhau (cũng có phiên bản Mamkut không xuất hiện). Trong hai phiên bản Sōen no Kiseki, Akatsuki no Megami thì Mamkut được thay bằng chủng tộc Laguz (ラグズ), cũng có năng lực hóa rồng như Mamkut. Ngoài ra còn có những nhân vật có khả năng hóa chim và thú.
Game Play
Mỗi màn chơi của Fire Emblem diễn ra trên một map được chia thành từng ô nhỏ, người chơi điều khiển từng Unit thông qua một bảng menu gồm nhiều command như di chuyển, tấn công, sử dụng Item…. Người chơi và máy mỗi bên hành động một lượt thay phiên nhau. Mục đích cũng rất đa dạng, từ việc chiếm thành địch, chiếm ngai vàng ở từng màn cho đến việc tiêu diệt hết quân địch, phòng vệ trong một số lượt (turn) nhất định để qua màn. Ngược lại, nếu nhân vật chính “chết” thì người chơi thua. Từ phiên bản Thracia 776 trở đi thì FE đã có thêm yếu tố mới là người chơi không thể xác nhận bước đi, hành động của quân địch trong những màn có sương mù hay ban đêm. Ở những màn này, người chơi cũng không thể thấy hết toàn thể map mà chỉ thấy được một phần nhỏ quanh vị trí của nhân vật. Hệ thống chiến đấu và nhân vật của FE có những nét tương đồng với những game RPG khác. Mỗi nhân vật được thiết lập mặc định ban đầu ở một class nào đó và các chỉ số năng lực nhất định. Thông qua việc chiến đấu hoặc sử dụng ma thuật hỗ trợ đồng đội, nhân vật nhận được điểm kinh nghiệm (exp), khi điểm này đủ 100 thì nhân vật tăng lên cấp độ (level) mới và các chỉ số năng lực như sức mạnh, phòng ngự… cũng được tăng một cách ngẫu nhiên. Khi đã đạt tới cấp độ nhất định nào đó (khác nhau tùy phiên bản) thì nhân vật có thể Classchange, chuyển sang một loại binh chủng khác mạnh hơn so với binh chủng hiện tại. Classchange là một yếu tố quan trọng trong mọi phiên bản FE. Nó giúp nhân vật trở nên mạnh hơn và đôi khi có thêm những khả năng giải quyết chìa khóa của game. Tuy nhiên cũng có những nhân vật không thể Classchange tồn tại trong FE.
Binh chủng và vũ khí
FE có rất nhiều loại binh chủng, mỗi loại có những ưu khuyết điểm riêng nhưng nhìn chung, mọi phiên bản đều có binh chủng Lord, kỵ binh, long kỵ binh, giáp trụ, ma đạo sĩ, nữ tu, cung binh, kiếm sĩ… Trong khi các loại binh chủng khác có thể có nhiều nhân vật nhưng riêng binh chủng Lord và một số binh chủng đặc thù như Hắc ám long, Địa long,… thì chỉ có một (hoặc vài, tùy phiên bản) nhân vật duy nhất. Nhân vật chính của game luôn được thiết lập ở binh chủng Lord (Seisen no Keifu có nhân vật chính ở binh chủng Lord Knight).
Cách tấn công của các loại binh chủng trong FE thường được chia làm 3 loại như sau:
* Tấn công trực tiếp: những loại binh chủng này thường là kỵ binh, kiếm sĩ, giáp binh,…. Đặc điểm của các nhóm binh chủng này là có thể tấn công và phản công trực tiếp khi được đặt ở vị trí tiếp cận đối phương và được trang bị vũ khí để tấn công.
* Tấn công gián tiếp: những loại binh chủng này thường là cung binh, cung kỵ binh. Đặc điểm của nhóm binh chủng này là có thể tấn công gián tiếp đối phương. Lợi điểm là không bị đối phương (nếu đối phương thuộc nhóm tấn công trực tiếp) phản đòn nhưng cũng có nhược điểm là không thể phản công khi bị tấn công trực tiếp.
* Tấn công trực tiếp và gián tiếp: nhóm binh chủng này thường là các pháp sư, ma đạo sĩ, tư tế… Nhóm này có khả năng tấn công cả trực tiếp và gián tiếp.
Mỗi loại vũ khí thông thường trong FE đều có giới hạn số lần sử dụng. Khi chiến đấu, số này giảm xuống và vũ khí sẽ hỏng khi số xuống 0. Vũ khí hỏng mang lại nhiều bất lợi cho nhân vật như lực tấn công xuống thấp, tốc độ tấn công chậm, khó tránh né đòn tấn công của địch… Nhưng các phiên bản FE luôn có những món Item hoặc phương cách để “đại tu” lại những món vũ khí sắp hết “hạn sử dụng”. Bắt đầu từ phiên bản Seisen no Keifu trở đi thì vũ khí trong FE đã có thêm khái niệm “bao búa kéo”. Tức là loại vũ khi A tương khắc vũ khí B, B tương khắc C và C tương khắc A. Các loại sách ma thuật cũng tương tự. Một số loại vũ khí đặc biệt còn được phát huy thêm sức mạnh khi được dùng để tấn công một số binh chủng đặc thù.
Cách tính toán
Cách tính toán độ sát thương, tần số xuất hiện skill… ở FE khác nhau tùy từng phiên bản. Nhưng có những cách tính cơ bản hầu như không thay đổi như sau:
* Chỉ số năng lực của một nhân vật (trừ HP) là tổ hợp gồm chỉ số cơ bản của binh chủng của nhân vật và chỉ số của bản thân nhân vật.
* Chỉ số sức mạnh khi tấn công của nhân vật là tổ hợp gồm chỉ số sức mạnh cơ bản của binh chủng + chỉ số sức mạnh cơ bản của nhân vật + chỉ số sức mạnh (uy lực) của vũ khí. Chỉ số phòng ngự cũng được tính theo cách tương tự.
* Số HP sát thương do nhân vật gây ra trên đối phương = tổng hợp các chỉ số sức mạnh của nhân vật – tổng hợp các chỉ số phòng ngự của đối phương.
Ngoài ra còn nhiều chỉ số khác như tốc độ tấn công, chỉ số tất sát… nhưng cách tính ở mỗi bản lại khác nhau. Tốc độ tấn công ảnh hưởng đến khả năng tấn công nhiều lần trong một ván đấu và khả năng tránh né đòn của nhân vật. Tất sát là khái niệm nhân vật ra đòn mạnh hơn bình thường (thường là gấp 3 lần) và xuất hiện ngẫu nhiên. Tần số xuất hiện tất sát cũng có cách tính của riêng nó, nhưng khác nhau giữa các phiên bản. Kể từ phiên bản Seisen no Keifu trở đi thì FE đã có thêm khái niệm Skill. Mỗi nhân vật đều có một hoặc vài kỹ năng nhất định. Những kỹ năng này có tác dụng hỗ trợ chiến đấu hoặc hỗ trợ đồng đội và chúng đóng một vai trò quan trọng trong chiến thuật của người chơi. Cách tính tần suất phát động Skill cũng có cách tính riêng biệt.
Liên kết ngoài
Trang chủ Fire Emblem World
Fire Emblem tiếng Việt trên Youtube
Khái quát về phiên bản Fire Emblem Monshō no Nazo
Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (ファイアーエムブレム 暗黒竜と光の剣) là một game RPG Simulation và tác phẩm thứ nhất trong series Fire Emblem do Intelligent System phát triển, được hãng Nintendō phát hành vào ngày 20 tháng 04 năm 1990 trên hệ máy Famicom. Từ ngày 20 tháng 10 năm 2009, người chơi có thể chơi được game này thông qua Wii Virtual Console với 500 điểm. Trong bài này sẽ sử dụng từ viết tắt Ankoku Ryū và Shin Ankoku Ryū mà không có cụm từ Fire Emblem ở đầu.
Khái yếu
Đây là tác phẩm đầu tiên trong series Fire Emblem và là phiên bản xây dựng nên nền tàng cho các phiên bản sau này. Trước thời điểm của Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi thì các nhân vật (Unit) trong những game mô phỏng chiến thuật khác chỉ giống như một quân cờ vô hồn. Nhưng khi Ankoku Ryū ra đời thì nó đã thổi sức sống vào những quân cờ này. Bằng việc cho các nhân vật phe người chơi và một phần phe địch hình khuôn mặt (avatar), Ankoku Ryū đã thành công trong việc khiến người chơi cảm nhận được sự sống của các Unit trong quá trình chơi. Khi nhân vật tử trận, nhân vật đó vĩnh viễn mất đi và không thể tham chiến nữa. Điều này khiến người chơi cảm nhận được sức sống của nhân vật và gia tăng tình cảm giữa họ. Trước thời điểm phát hành thì tại Nhật, giá bán game giảm mạnh, nhưng sau khi Ankoku Ryū được phát hành nửa năm thì nó đã chiếm được tình cảm của một số nhà báo, và trong giới gamer cũng có nhiều sự tuyên truyền miệng với nhau. Đương thời, Ankoku Ryū được quảng bá trên truyền hình nhưng không có một hình ảnh nào về game mà chỉ là một nhóm diễn viên phục trang theo lối kỵ sĩ Châu Âu thời trung cổ, cùng hát bài ca chủ đề của series FE. Thiết kế game là Kaga Shōzō, người được xem là cha đẻ của Fire Emblem, đạo diễn là Terasaki Keisukei, âm nhạc do Banba Yuka, Tanaka Hirokazu phụ trách và giám đốc sản xuất là Yokoi Gumpei.
Tham khảo thêm bản remake Monshō no Nazo, Shin Akoku Ryū to Hikari no ken.
Tên gọi
Tham khảo thêm mục tên gọi trong bài Fire Emblem. Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi thường được dịch sang Anh ngữ là Shadow Dragon and the Blade of Light, dịch sang Việt ngữ là “Hắc ám long và thanh kiếm ánh sáng” (bản dịch Như Thị Ngã Văn, Monshō no Nazo) và “Hắc ám long và quang kiếm” (bản dịch Asm65816, Monshō no Nazo). Tên chính thức của phiên bản này được viết trong tiếng Nhật là 暗黒竜と光の剣, từ剣 có hai cách đọc. Nếu đọc theo âm Hán-Nhật thì sẽ là “ken”, nhưng nếu đọc theo âm thuần Nhật sẽ là “tsurugi” (giống như “kiếm” là Hán-Việt còn “gươm” là thuần Việt). Chính vì vậy nên cả hai cách đọc “Ankoku Ryū to Hikari no ken” và “Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi” đều đúng. Nhưng ở phiên bản này, vì hạn chế ở mặt phần cứng nên toàn bộ chữ và lời thoại trong game chỉ dùng chữ kana mà không dùng Hán tự. Dựa theo lời thoại của một nhân vật trong game thì剣 được đọc là “tsurugi”. Vì vậy có thể nói tên gọi chính thức của phiên bản này là Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi. Nhưng dựa theo lời đọc trong đoạn quảng cáo trên truyền hình của bản remake, 新・暗黒竜と光の剣 được đọc là “Ankoku Ryū to Hikari no ken”. Sau này cũng gặp một trường hợp tương tự. Phiên bản 封印の剣 được đọc là “Fūin no tsurugi” nhưng bản 烈火の剣 lại được đọc là “Rekka no ken” dù cả hai đều có cùng chữ Hán cuối cùng.
Nội dung
100 năm sau kể từ cuộc chiến giữa Hắc ám địa long vương Medius và dũng giả Anri, Medius lại hồi sinh và gây chiến loạn khắp đại lục Akania. Vương quốc Aritia do Anri gây dựng đã bị tiêu diệt bởi Đế quốc Dorua do Medius cầm đầu và liên quốc quân. Vương tử Marusu được người chị Elith cứu thoát, lưu lạc đến đảo quốc Taris và ở đó, chàng bắt đầu chiêu mộ binh sĩ chống lại Dorua, giành lại tổ quốc.
Thế giới quan
Vương quốc Akania (アカネイア王国)
Đất nước chủ chốt ở đại lục Akania, có lịch sử lâu đời nhất đại lục nhưng sau bị phân thành 7 vương quốc nhỏ. 100 năm trước thời điểm câu chuyện diễn ra, Akania bị Đế quốc Dorua xâm chiếm, đến thời điểm câu chuyện bắt đầu thì vương đô Pales đã thất thủ. Ngoại trừ vương nữ Nina, toàn bộ vương tộc đều bị xử tử.
Vương quốc Aritia (アリティア王国)
Đất nước do người hùng Anri, tổ tiên của nhân vật chính Marusu dựng nên. 100 năm trước, quốc vương đầu tiên của Aritia là Anri đã dùng thần kiếm Falcion đánh bại Hắc ám địa long Medius. 100 năm sau, Medius hồi sinh, lãnh đạo binh đoàn Dorua tấn công Aritia. Quốc vương Cornerius mang thần kiếm Falcion nghênh chiến nhưng bị nước đồng minh Gra phản bội, cuối cùng Aritia lâm vào cảnh diệt vong.
Vương quốc Orlean (オレルアン王国)
Vương quốc ở tận cùng phía Đông Bắc của đại lục. Đất nước này sở hữu vùng thảo nguyên rộng lớn nên được gọi “vương quốc thảo nguyên” và thành thạo mã thuật. Thời điểm bắt đầu câu chuyện, Orlean đã bị Makedonia chiếm lãnh nhưng em trai quốc vương, Hardin bao che cho vương nữ Nina đến đây lánh nạn và khởi nghĩa, tiến hành chiến tranh du kích.
Vương quốc Grunia (グルニア王国)
Đất nước nằm ở phía Tây Nam của đại lục, nổi danh với binh đoàn hắc kỵ sĩ do Camyu lãnh đạo.
Kỵ binh Grunia được xem là tinh nhụê nhất đại lục, nhưng đất nước này vốn có ác cảm với Akania, quốc vương Grunia lại hèn yếu nên vội bắt tay ngay với Dorua để xâm chiếm Akania. Điều này dẫn đến bi kịch của hắc kỵ sĩ Camyu và vương nữ Nina vốn có tình cảm với nhau. Phân vân giữa lòng yêu nước và tình cảm cá nhân, cuối cùng Camyu đã đặt quốc gia lên đầu khiến Nina đau khổ. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến bi kịch của Nina và Hardin và là nội dung chủ yếu của phiên bản remake Fire Emblem Monshō no Nazo. Grunia còn nổi danh với đội chiến xa “mộc mã đội”.
Vương quốc Makedonia (マケドニア王国)
Đất nước phía Nam của đại lục, sở hữu vùng rừng rậm rộng lớn và nhiều đồi núi, nổi danh với binh đoàn phi long kỵ sĩ tinh nhuệ. Đất nước này là sản địa của loài phi long và thiên mã Pegasus. Makedonia được tiết lộ là do một người nô lệ tên Iote dựng nên trong bộ 2 của bản remake Fire Emblem Monshō no Nazo.
Vào thời điểm câu chuyện, vương tử Michel bắt tay với Đế quốc Dorua, xâm chiếm các nước. Nhưng em gái là Minerva phản đối chính sách xâm lược của Michel và bỏ theo quân Aritia.
Vương quốc Taris (タリス王国)
Taris là hòn đảo nhỏ nối giữa biển đông. Trước thời điểm bắt đầu câu chuyện vài chục năm, một tộc trưởng trong số các bộ tộc trên đảo đã thống nhất đảo, lập nên đất nước này. Vì chưa thành lập được bao lâu nên vương quốc này không có bao nhiêu binh lực và phải dựa hoàn toàn vào lực lượng bị binh đánh thuê để phòng vệ. Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi mở đầu với bối cảnh hải tặc tấn công thành Taris, vương nữ Sida vội đến chỗ Marusu cầu cứu.
Vương quốc Gra (グラ王国)
Vương quốc giáp phía Đông của Aritia, bắt tay với Đế quốc Dorua, phản bội đồng minh để rồi chuốc lấy diệt vong sau này.
Kadain (カダイン)
Ma đạo quốc nằm ở phía Tây của đại lục. Đây là đất nước của các ma đạo sĩ với nhiều học viện pháp thuật. Sau khi hắc ám tư tế Garnef cai trị Kadain thì đất nước này đã bắt tay với Đế quốc Dorua.
Đế quốc Dorua (ドルーア帝国)
Đất nước này là một khu rừng nguyên sinh rộng lớn ở phía Tây Nam của đại lục Akania. Đây là nơi tập hợp của các Mamkut do Địa long vương Medius thống lĩnh. 100 năm trước khi câu chuyện bắt đầu, Medius tấn công Akania nhưng bị người hùng Anri đánh bại. 100 năm sau, Medius hồi sinh và lại tấn công Akania.
Kasimia (カシミア国)
Một tiểu quốc nằm trong liên bang Akania. Kasimia nối liền với đại lục bằng một cây cầu lớn. Nơi đây có thần điện Rhaman với nhiều châu báu quý giá.
Game Play
Đây là phiên bản đầu tiên trong series và định hình cho các phiên bản sau. Dưới đây là những yếu tố không có trong các bản sau.
* Hệ tăng lữ, nữ tu không nhận được điểm kinh nghiệm (exp) khi sử dụng gậy ma thuật. Nhưng binh chủng này lại nhận được exp khi bị địch tấn công bằng với số điểm exp khi hạ đơn vị địch đó.
* Khi level up, một số nhân vật được gia tăng tối đa 4 chỉ số và có khi level, chỉ số tăng là 0%. Ở các bản sau, số này là trên 1%.
* Các đơn vị địch không có chỉ số may mắn (LUK) nên hệ vũ khí devil không có tác dụng ngược với địch. Ở bản này và Gaiden thì chỉ số may mắn liên quan với khả năng tránh né ma thuật, nhưng từ Monshō no Nazo trở đi thì chỉ số may mắn liên quan với khả năng tránh đòn tất sát.
* Ngoại trừ nhân vật Gato có chỉ số phòng ma thuật (Mdf) 7 thì các nhân vật còn lại đều có Mdf 0.
Điều này không được người chơi chấp nhận nên đã được sửa chữa ở bản Monshō no Nazo, khi level up thì nhân vật vẫn có khả năng gia tăng chỉ số Mdf nhưng cơ hội rất thấp.
* Cách tính toán các chỉ số trong chiến đấu khác với các bản sau.
* Người chơi vẫn có thể di chuyển con trỏ (cursor) trong lượt đi của địch. Yếu tố này bị cắt bỏ ở bản sau. Đến lượt đi của người chơi, màn hình trở nên tối hơn và điều này cũng bị bỏ đi ở bản sau. Ở bản này, nếu nhấn nút đúng khi chuyển từ chương 8 sang chương 9 sẽ làm xuất hiện bug “kagemusha butai” và bug này cũng đã bị xóa trong bản Monshō no Nazo.
* Ở bản này, nếu nhân vật lựa chọn command vứt, đổi hay sắp xếp vũ khí thì sẽ hết lượt ngay sau đó. Ở bản sau, sau khi lựa chọn những command này thì nhân vật vẫn tiếp tục hành động được, dù không thể di chuyển tiếp.
* Số lượt chơi được hiển thị ở Ankoku Ryū chỉ đến 255, nhưng từ Gaiden trở đi thì số turn là 999.
* Ở bản này, nhân vật chỉ có thể trao nhận Item khi đã ra ngoài Map và phải tốn 10G một lượt, chỉ chứa được tối đa 40 món Item nên tốn rất nhiều lượt đi của người chơi. Vì vậy bản Monshō no Nazo đã cải thiện, cho phép chuyển Item vào quân khố với khả năng chứa lớn hơn rất nhiều và không tốn phí.
* Ở bản này, nhân vật có thể lựa chọn vũ khí khi vào đấu trường. Nếu đanh chiến đấu mà vũ khí hỏng thì nhân vật sẽ ở trạng thái không thể chống cự cho đến khi hết lượt chiến đấu. Bản sau đã cải thiện điểm này. Và ở bản này, chỉ cần 2 nhân vật trong số 3 chị em Pegasus thay vì phải đủ cả 3 như bản sau.
Ngoài ra, Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi còn nhiều điểm dị biệt về thiết kế nhân vật, ngôn từ sử dụng,… so với Monshō no Nazo.
Thương phẩm liên quan
Thư tịch
* Fire Emblem the complete (ファイアーエムブレム・ザ・コンプ� �� �� �� ��ート) (NTT xuất bản)
Phát hành ngày 20 tháng 5 năm 1996. ISBN 4-87188-822-3. Đây là tập Fanbook về Fire Emblem Ankoku Ryū Hikari no tsurugi, Gaiden và Monshō no Nazo. Sách có nhiều tư liệu về nhân vật, Item, quốc huy các nước trong FE3 và giới thiệu, phỏng vấn các diễn viên lồng tiếng cho Fire Emblem Monshō no Nazo (OVA).
Manga
Ankoku Ryū được nhiều họa sĩ Manga chọn làm đề tài sáng tác, trong đó có nhiều họa sĩ nữ. Trong số này có tác phẩm của họa sĩ Shinoda Maki gồm 12 cuốn gốc từng được xuất bản tại Việt Nam với cái tên”Bãi biển thần linh”.
Chi tiết mục này xin tham khảo bản Wikipedia tiếng Nhật.
Tiểu thuyết
* Yamaguchi Hiroshi
Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (Futaba, Fantasy novel series)
Xuất bản ngày 26 tháng 10 năm 1992. ISBN 4-575-23131-2
* Shinozaki Sami
Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (Enter Brain Famitsū bunko)
Xuất bản ngày 20 tháng 10 năm 200. ISBN 4-7577-0190-X
Tác giả này còn có tập tiểu thuyết tiếp theo là Fire Emblem Monshō no Nazo.
Ngoài ra Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi còn có nhiều CD Soundtrack, Drama CD liên quan. Chi tiết phần này xin tham khảo bản Wikipedia tiếng Nhật.
Khái yếu
Đây là tác phẩm đầu tiên trong series Fire Emblem và là phiên bản xây dựng nên nền tàng cho các phiên bản sau này. Trước thời điểm của Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi thì các nhân vật (Unit) trong những game mô phỏng chiến thuật khác chỉ giống như một quân cờ vô hồn. Nhưng khi Ankoku Ryū ra đời thì nó đã thổi sức sống vào những quân cờ này. Bằng việc cho các nhân vật phe người chơi và một phần phe địch hình khuôn mặt (avatar), Ankoku Ryū đã thành công trong việc khiến người chơi cảm nhận được sự sống của các Unit trong quá trình chơi. Khi nhân vật tử trận, nhân vật đó vĩnh viễn mất đi và không thể tham chiến nữa. Điều này khiến người chơi cảm nhận được sức sống của nhân vật và gia tăng tình cảm giữa họ. Trước thời điểm phát hành thì tại Nhật, giá bán game giảm mạnh, nhưng sau khi Ankoku Ryū được phát hành nửa năm thì nó đã chiếm được tình cảm của một số nhà báo, và trong giới gamer cũng có nhiều sự tuyên truyền miệng với nhau. Đương thời, Ankoku Ryū được quảng bá trên truyền hình nhưng không có một hình ảnh nào về game mà chỉ là một nhóm diễn viên phục trang theo lối kỵ sĩ Châu Âu thời trung cổ, cùng hát bài ca chủ đề của series FE. Thiết kế game là Kaga Shōzō, người được xem là cha đẻ của Fire Emblem, đạo diễn là Terasaki Keisukei, âm nhạc do Banba Yuka, Tanaka Hirokazu phụ trách và giám đốc sản xuất là Yokoi Gumpei.
Tham khảo thêm bản remake Monshō no Nazo, Shin Akoku Ryū to Hikari no ken.
Tên gọi
Tham khảo thêm mục tên gọi trong bài Fire Emblem. Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi thường được dịch sang Anh ngữ là Shadow Dragon and the Blade of Light, dịch sang Việt ngữ là “Hắc ám long và thanh kiếm ánh sáng” (bản dịch Như Thị Ngã Văn, Monshō no Nazo) và “Hắc ám long và quang kiếm” (bản dịch Asm65816, Monshō no Nazo). Tên chính thức của phiên bản này được viết trong tiếng Nhật là 暗黒竜と光の剣, từ剣 có hai cách đọc. Nếu đọc theo âm Hán-Nhật thì sẽ là “ken”, nhưng nếu đọc theo âm thuần Nhật sẽ là “tsurugi” (giống như “kiếm” là Hán-Việt còn “gươm” là thuần Việt). Chính vì vậy nên cả hai cách đọc “Ankoku Ryū to Hikari no ken” và “Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi” đều đúng. Nhưng ở phiên bản này, vì hạn chế ở mặt phần cứng nên toàn bộ chữ và lời thoại trong game chỉ dùng chữ kana mà không dùng Hán tự. Dựa theo lời thoại của một nhân vật trong game thì剣 được đọc là “tsurugi”. Vì vậy có thể nói tên gọi chính thức của phiên bản này là Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi. Nhưng dựa theo lời đọc trong đoạn quảng cáo trên truyền hình của bản remake, 新・暗黒竜と光の剣 được đọc là “Ankoku Ryū to Hikari no ken”. Sau này cũng gặp một trường hợp tương tự. Phiên bản 封印の剣 được đọc là “Fūin no tsurugi” nhưng bản 烈火の剣 lại được đọc là “Rekka no ken” dù cả hai đều có cùng chữ Hán cuối cùng.
Nội dung
100 năm sau kể từ cuộc chiến giữa Hắc ám địa long vương Medius và dũng giả Anri, Medius lại hồi sinh và gây chiến loạn khắp đại lục Akania. Vương quốc Aritia do Anri gây dựng đã bị tiêu diệt bởi Đế quốc Dorua do Medius cầm đầu và liên quốc quân. Vương tử Marusu được người chị Elith cứu thoát, lưu lạc đến đảo quốc Taris và ở đó, chàng bắt đầu chiêu mộ binh sĩ chống lại Dorua, giành lại tổ quốc.
Thế giới quan
Vương quốc Akania (アカネイア王国)
Đất nước chủ chốt ở đại lục Akania, có lịch sử lâu đời nhất đại lục nhưng sau bị phân thành 7 vương quốc nhỏ. 100 năm trước thời điểm câu chuyện diễn ra, Akania bị Đế quốc Dorua xâm chiếm, đến thời điểm câu chuyện bắt đầu thì vương đô Pales đã thất thủ. Ngoại trừ vương nữ Nina, toàn bộ vương tộc đều bị xử tử.
Vương quốc Aritia (アリティア王国)
Đất nước do người hùng Anri, tổ tiên của nhân vật chính Marusu dựng nên. 100 năm trước, quốc vương đầu tiên của Aritia là Anri đã dùng thần kiếm Falcion đánh bại Hắc ám địa long Medius. 100 năm sau, Medius hồi sinh, lãnh đạo binh đoàn Dorua tấn công Aritia. Quốc vương Cornerius mang thần kiếm Falcion nghênh chiến nhưng bị nước đồng minh Gra phản bội, cuối cùng Aritia lâm vào cảnh diệt vong.
Vương quốc Orlean (オレルアン王国)
Vương quốc ở tận cùng phía Đông Bắc của đại lục. Đất nước này sở hữu vùng thảo nguyên rộng lớn nên được gọi “vương quốc thảo nguyên” và thành thạo mã thuật. Thời điểm bắt đầu câu chuyện, Orlean đã bị Makedonia chiếm lãnh nhưng em trai quốc vương, Hardin bao che cho vương nữ Nina đến đây lánh nạn và khởi nghĩa, tiến hành chiến tranh du kích.
Vương quốc Grunia (グルニア王国)
Đất nước nằm ở phía Tây Nam của đại lục, nổi danh với binh đoàn hắc kỵ sĩ do Camyu lãnh đạo.
Kỵ binh Grunia được xem là tinh nhụê nhất đại lục, nhưng đất nước này vốn có ác cảm với Akania, quốc vương Grunia lại hèn yếu nên vội bắt tay ngay với Dorua để xâm chiếm Akania. Điều này dẫn đến bi kịch của hắc kỵ sĩ Camyu và vương nữ Nina vốn có tình cảm với nhau. Phân vân giữa lòng yêu nước và tình cảm cá nhân, cuối cùng Camyu đã đặt quốc gia lên đầu khiến Nina đau khổ. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến bi kịch của Nina và Hardin và là nội dung chủ yếu của phiên bản remake Fire Emblem Monshō no Nazo. Grunia còn nổi danh với đội chiến xa “mộc mã đội”.
Vương quốc Makedonia (マケドニア王国)
Đất nước phía Nam của đại lục, sở hữu vùng rừng rậm rộng lớn và nhiều đồi núi, nổi danh với binh đoàn phi long kỵ sĩ tinh nhuệ. Đất nước này là sản địa của loài phi long và thiên mã Pegasus. Makedonia được tiết lộ là do một người nô lệ tên Iote dựng nên trong bộ 2 của bản remake Fire Emblem Monshō no Nazo.
Vào thời điểm câu chuyện, vương tử Michel bắt tay với Đế quốc Dorua, xâm chiếm các nước. Nhưng em gái là Minerva phản đối chính sách xâm lược của Michel và bỏ theo quân Aritia.
Vương quốc Taris (タリス王国)
Taris là hòn đảo nhỏ nối giữa biển đông. Trước thời điểm bắt đầu câu chuyện vài chục năm, một tộc trưởng trong số các bộ tộc trên đảo đã thống nhất đảo, lập nên đất nước này. Vì chưa thành lập được bao lâu nên vương quốc này không có bao nhiêu binh lực và phải dựa hoàn toàn vào lực lượng bị binh đánh thuê để phòng vệ. Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi mở đầu với bối cảnh hải tặc tấn công thành Taris, vương nữ Sida vội đến chỗ Marusu cầu cứu.
Vương quốc Gra (グラ王国)
Vương quốc giáp phía Đông của Aritia, bắt tay với Đế quốc Dorua, phản bội đồng minh để rồi chuốc lấy diệt vong sau này.
Kadain (カダイン)
Ma đạo quốc nằm ở phía Tây của đại lục. Đây là đất nước của các ma đạo sĩ với nhiều học viện pháp thuật. Sau khi hắc ám tư tế Garnef cai trị Kadain thì đất nước này đã bắt tay với Đế quốc Dorua.
Đế quốc Dorua (ドルーア帝国)
Đất nước này là một khu rừng nguyên sinh rộng lớn ở phía Tây Nam của đại lục Akania. Đây là nơi tập hợp của các Mamkut do Địa long vương Medius thống lĩnh. 100 năm trước khi câu chuyện bắt đầu, Medius tấn công Akania nhưng bị người hùng Anri đánh bại. 100 năm sau, Medius hồi sinh và lại tấn công Akania.
Kasimia (カシミア国)
Một tiểu quốc nằm trong liên bang Akania. Kasimia nối liền với đại lục bằng một cây cầu lớn. Nơi đây có thần điện Rhaman với nhiều châu báu quý giá.
Game Play
Đây là phiên bản đầu tiên trong series và định hình cho các phiên bản sau. Dưới đây là những yếu tố không có trong các bản sau.
* Hệ tăng lữ, nữ tu không nhận được điểm kinh nghiệm (exp) khi sử dụng gậy ma thuật. Nhưng binh chủng này lại nhận được exp khi bị địch tấn công bằng với số điểm exp khi hạ đơn vị địch đó.
* Khi level up, một số nhân vật được gia tăng tối đa 4 chỉ số và có khi level, chỉ số tăng là 0%. Ở các bản sau, số này là trên 1%.
* Các đơn vị địch không có chỉ số may mắn (LUK) nên hệ vũ khí devil không có tác dụng ngược với địch. Ở bản này và Gaiden thì chỉ số may mắn liên quan với khả năng tránh né ma thuật, nhưng từ Monshō no Nazo trở đi thì chỉ số may mắn liên quan với khả năng tránh đòn tất sát.
* Ngoại trừ nhân vật Gato có chỉ số phòng ma thuật (Mdf) 7 thì các nhân vật còn lại đều có Mdf 0.
Điều này không được người chơi chấp nhận nên đã được sửa chữa ở bản Monshō no Nazo, khi level up thì nhân vật vẫn có khả năng gia tăng chỉ số Mdf nhưng cơ hội rất thấp.
* Cách tính toán các chỉ số trong chiến đấu khác với các bản sau.
* Người chơi vẫn có thể di chuyển con trỏ (cursor) trong lượt đi của địch. Yếu tố này bị cắt bỏ ở bản sau. Đến lượt đi của người chơi, màn hình trở nên tối hơn và điều này cũng bị bỏ đi ở bản sau. Ở bản này, nếu nhấn nút đúng khi chuyển từ chương 8 sang chương 9 sẽ làm xuất hiện bug “kagemusha butai” và bug này cũng đã bị xóa trong bản Monshō no Nazo.
* Ở bản này, nếu nhân vật lựa chọn command vứt, đổi hay sắp xếp vũ khí thì sẽ hết lượt ngay sau đó. Ở bản sau, sau khi lựa chọn những command này thì nhân vật vẫn tiếp tục hành động được, dù không thể di chuyển tiếp.
* Số lượt chơi được hiển thị ở Ankoku Ryū chỉ đến 255, nhưng từ Gaiden trở đi thì số turn là 999.
* Ở bản này, nhân vật chỉ có thể trao nhận Item khi đã ra ngoài Map và phải tốn 10G một lượt, chỉ chứa được tối đa 40 món Item nên tốn rất nhiều lượt đi của người chơi. Vì vậy bản Monshō no Nazo đã cải thiện, cho phép chuyển Item vào quân khố với khả năng chứa lớn hơn rất nhiều và không tốn phí.
* Ở bản này, nhân vật có thể lựa chọn vũ khí khi vào đấu trường. Nếu đanh chiến đấu mà vũ khí hỏng thì nhân vật sẽ ở trạng thái không thể chống cự cho đến khi hết lượt chiến đấu. Bản sau đã cải thiện điểm này. Và ở bản này, chỉ cần 2 nhân vật trong số 3 chị em Pegasus thay vì phải đủ cả 3 như bản sau.
Ngoài ra, Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi còn nhiều điểm dị biệt về thiết kế nhân vật, ngôn từ sử dụng,… so với Monshō no Nazo.
Thương phẩm liên quan
Thư tịch
* Fire Emblem the complete (ファイアーエムブレム・ザ・コンプ� �� �� �� ��ート) (NTT xuất bản)
Phát hành ngày 20 tháng 5 năm 1996. ISBN 4-87188-822-3. Đây là tập Fanbook về Fire Emblem Ankoku Ryū Hikari no tsurugi, Gaiden và Monshō no Nazo. Sách có nhiều tư liệu về nhân vật, Item, quốc huy các nước trong FE3 và giới thiệu, phỏng vấn các diễn viên lồng tiếng cho Fire Emblem Monshō no Nazo (OVA).
Manga
Ankoku Ryū được nhiều họa sĩ Manga chọn làm đề tài sáng tác, trong đó có nhiều họa sĩ nữ. Trong số này có tác phẩm của họa sĩ Shinoda Maki gồm 12 cuốn gốc từng được xuất bản tại Việt Nam với cái tên”Bãi biển thần linh”.
Chi tiết mục này xin tham khảo bản Wikipedia tiếng Nhật.
Tiểu thuyết
* Yamaguchi Hiroshi
Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (Futaba, Fantasy novel series)
Xuất bản ngày 26 tháng 10 năm 1992. ISBN 4-575-23131-2
* Shinozaki Sami
Fire Emblem Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi (Enter Brain Famitsū bunko)
Xuất bản ngày 20 tháng 10 năm 200. ISBN 4-7577-0190-X
Tác giả này còn có tập tiểu thuyết tiếp theo là Fire Emblem Monshō no Nazo.
Ngoài ra Ankoku Ryū to Hikari no tsurugi còn có nhiều CD Soundtrack, Drama CD liên quan. Chi tiết phần này xin tham khảo bản Wikipedia tiếng Nhật.

Fire Emblem Monshō no nazo là phiên bản đầu tiên trên hệ máy SNES của series game Fire Emblem lừng danh. Hãng Nintendō chưa bao giờ phát hành bản Fire Emblem nào bằng ngôn ngữ khác ngoài tiếng Nhật. Đầu năm 2010, bản dịch Việt văn hoàn chỉnh đầu tiên của dòng game này đã ra đời. Monshō no nazo là một thiên anh hùng ca, đậm chất sử thi lãng mạng và bi tráng xoay quanh huyền thoại đau thương về chiếc khiên thần Fire Emblem.
Khuyến khích chơi game bằng giả lập Snes9X.
Hệ máy: Snes
Năm sản xuất: 1994
Hãng sản xuất: Nintendō
Thể loại: chiến thuật, nhập vai (RPG Simulation)
Giả lập khuyên dùng: Snes9x hoặc Bsnes
Video quảng cáo
[video=youtube;DlxBS5m8tZo]http://www.youtube.com/watch?v=DlxBS5m8tZo[/video]
Download
(một trong hai link đều được)
Link tải phim
Chỉnh sửa lần cuối: