lengockhanhi
Film critic
Remake là sựlàm lại một bộ phim đã có từ trước, phiên bản mới vẫn dựa trên kịch bản cũ, vớirất ít hoặc không có sự thay đổi về câu chuyện, nhân vật và lời thoại. Tên phimthường không đổi. Như vậy, Total Recall (2012) là 1 phim remake từ phiên bản1991, King Kong của Peter Jackson là bản remake của King Kong thập niên 30…
Remake khácvới Reboot, vì reboot chỉ dựa trên một vài chất liệu như nhân vật hay hoàn cảnh,chứ không lặp lại hoàn toàn kịch bản đã có. Ví dụ, Robin Hood năm 2010 không phảilà remake của Robin Hood Prince of Thieves năm 1991, mà là 1 bản reboot, tươngtự: Batman begin, amazing spiderman là những bản reboot của dòng phim Batman,Spiderman.
Những phimcùng 1 ý tưởng thậm chí tên gọi, nhưng hoàn toàn khác nhau về nhân vật và tìnhhuống, thì không thể xếp vào cả loại remake hay reboot, chúng chỉ đơn giản lànhững phim cùng chủ đề. Ví dụ ta có hàng đống phim về nàng bạch tuyết hay ônggià Noel…
Phimsequels là những phần tiếp theo trong một chuỗi phim về cùng 1 nhân vật, cùng 1chủ đề, cùng 1 ý tưởng, chúng có quan hệ với nhau về diễn tiến câu chuyện theothời gian, tên của chúng cũng được đánh số theo thứ tự xuất hiện. Ví dụ serieRambo, Serie Terminator, James Bond, Star trek, Stars War…
Phong trào làm phim remake luôn diễn ra tronglịch sử điện ảnh Mỹ, nhưng ở một số thời điểm nó tăng mạnh với số lượng phim remakerất nhiều. Theo dõi diễn tiến của dòng phim remake sẽ cho ta thấy nhiều phát hiệnthú vị mà Nhi sẽ trình bày dưới đây.
Đường màu xám biểu thị cho số lượng phim remake hằng năm. Biểu đồ phim remake không hoàn toàn là 1 hình sin như Nhi nghĩ, nhưng nó có chu kì. Số phim remake thường tăng giảm có chu kì, và đạt mức đỉnh điểm 1 vài năm sau sự xuất hiện của một cuộc cách mạng điện ảnh (về kỹ thuật,phong cách làm phim). Khi điều kiện vật chất và kỹ thuật cho phép, người ta bắtđầu làm lại những phim cũ… Nếu lấy năm 1991, đầu thập niên 90 làm mốc, ta thấycông nghệ bắt đầu phát triển ở giai đoạn này, số phim remake tăng dần và bãohòa vào năm 1995. 10 năm sau, vào thời điểm chuển tiếp giữa 2 năm 2000-2001, phong trào này lại khởi xướng trở lại, số phim remake dao động hằng năm 1-2 phim cho tới năm 2005, sau đó nó đi xuống lại. Có vẻ như tốcđộ phát triển về khoa học và văn hóa ngày nay cao hơn nhiều so với thập niên 90 đã rút ngắn chu kì remake phim lạ. Như vậy đỉnh của phong trào remake có thể xảy ra sau năm 2011.
Trên biểu đồ này, ta cũng có thể thấy trong một số giai đoạn, phim remake và sequel phát triểngần như song song với nhau (như suốt thập niên 90), điều đó nói lên điều gì ? Nhi cho rằng Hollywood luôn bị bão hòahay cạn về đề tài. Những năm mà phim sequel hạ xuống thấp nhất chính là thời điểmcủa một cuộc cách mạng nào đó trong phim ảnh, ví dụ năm 1999-2000, năm đó sẽ cónhiều phim hay và độc đáo ra đời.
Ngược vớiremake, đỉnh cao của phim sequel không phản ánh nhiều về tình hình phát triển củađiện ảnh, và nó không có chu kỳ, tất cả là ngẫu nhiên. Ví dụ năm 2005 phimsequel chỉ có 2 tác phẩm làHarry Potter 4, Star War 3…
Khi phântích về doanh thu, ta sẽ hiểu vì sao người ta thích làm sequel, vì chúng thu rấtnhiều tiền bán vé, và điều này không phụ thuộc vào chất lượng phim hay dở, chỉđơn giản là: cứ phim sequel thì sẽ có lợi nhuận rất cao, nhất là phần 2. Thật vậy,năm 1991 ta có Terminator 2, năm 1999 ta có Star War episode 1, đều đứng hạngnhất về doanh thu. Avatar của James Cameron là 1 ngoại lệ, 1 phim original đạtdoanh thu khủng, nhưng các bạn có thể tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra khi Avatar 2ra mắt…
5/20 phimdoanh thu cao nhất năm 2001 là phim sequels.
7/10 phimdoanh thu cao nhất năm 2002 là sequel
5/8 phimdoanh thu cao nhất 2004 là sequel, bao gồm Spiderman 2 mặc dù phần này khá dở…
Tỉ lệ nàyngày càng cao, ví dụ: 2/3 phim doanh thu cao nhất 2005 là sequel; năm 2006:5/9, năm 2007: 6/8,
Năm 2009, mặcdù Avatar là ngoại lệ như Nhi nói, nhưng 3 vị trí sau Avatar đều là phimsequels: Transformers 2 (thứ 2 ), Harry Potter and the Half-Blood Prince (3),and The Twilight Saga: New Moon (4),
…
Nhi thấy nhữngcon số này rất đáng sợ, nó cho thấy rằng sẽ đến 1 ngày nào đó người ta sẽ bị mờmắt vì lợi nhuận, khi đó chúng ta chỉ còn được xem phim sequels thì thật là taihọa…
Nếu loại bỏsự hào nhoáng giả tạo do những sequel này đưa đến, ta thấy rằng trong vòng 20năm qua có rất ít phim hoàn toàn mới và thực sự ấn tượng, con số này đếm trên đầungón tay:
Shrek, ToyStory, Harry Potter, Star Wars, Lord of the Rings, Transformers, Twilight,Spiderman, Batman, Iron Man, X-Men, Pirates of the Caribbean…
Ngược vớisequel, phim remake hiếm khi đoạt doanh thu cao, và cũng hiếm khi chúng đượckhen là hay hơn phim gốc… Phim Remake đạt doanh thu cao nhất trong lịch sử chính là True Lies (1994) , xếp hạng 3. Bằng phân tích thống kê (tài liệu tham khảo (1)): người ta thấy sự thật là
him remake luôn có điểm thấp hơn trên IMDB so với phim gốc.
Gần đây,phim remake được đầu tư nhiều hơn nhưng nó chưa thoát khỏi lời nguyền bi đát vềdoanh thu và cảm nhận của khan giả. Ngay cả sau này doanh thu của remake có cảithiện, nhưng rất hiếm khi lọt top 5: Ocean’sEleven (hạng 8), Planet of the Apes (hạng 10) vào năm 2001, War of the Worlds (hạng4) và King Kong (hạng 5) năm 2005.
Tài liệu tham khảo:
(1) GinsburghV, Pestieau P, and Weyers S 2007 Are Remakes Doing as Well as Originals? ANote, Working Paper 2007/05, Center of Research in Public Economics andPopulation Economics, University of Liège.
Remake khácvới Reboot, vì reboot chỉ dựa trên một vài chất liệu như nhân vật hay hoàn cảnh,chứ không lặp lại hoàn toàn kịch bản đã có. Ví dụ, Robin Hood năm 2010 không phảilà remake của Robin Hood Prince of Thieves năm 1991, mà là 1 bản reboot, tươngtự: Batman begin, amazing spiderman là những bản reboot của dòng phim Batman,Spiderman.
Những phimcùng 1 ý tưởng thậm chí tên gọi, nhưng hoàn toàn khác nhau về nhân vật và tìnhhuống, thì không thể xếp vào cả loại remake hay reboot, chúng chỉ đơn giản lànhững phim cùng chủ đề. Ví dụ ta có hàng đống phim về nàng bạch tuyết hay ônggià Noel…
Phimsequels là những phần tiếp theo trong một chuỗi phim về cùng 1 nhân vật, cùng 1chủ đề, cùng 1 ý tưởng, chúng có quan hệ với nhau về diễn tiến câu chuyện theothời gian, tên của chúng cũng được đánh số theo thứ tự xuất hiện. Ví dụ serieRambo, Serie Terminator, James Bond, Star trek, Stars War…
Phong trào làm phim remake luôn diễn ra tronglịch sử điện ảnh Mỹ, nhưng ở một số thời điểm nó tăng mạnh với số lượng phim remakerất nhiều. Theo dõi diễn tiến của dòng phim remake sẽ cho ta thấy nhiều phát hiệnthú vị mà Nhi sẽ trình bày dưới đây.

Đường màu xám biểu thị cho số lượng phim remake hằng năm. Biểu đồ phim remake không hoàn toàn là 1 hình sin như Nhi nghĩ, nhưng nó có chu kì. Số phim remake thường tăng giảm có chu kì, và đạt mức đỉnh điểm 1 vài năm sau sự xuất hiện của một cuộc cách mạng điện ảnh (về kỹ thuật,phong cách làm phim). Khi điều kiện vật chất và kỹ thuật cho phép, người ta bắtđầu làm lại những phim cũ… Nếu lấy năm 1991, đầu thập niên 90 làm mốc, ta thấycông nghệ bắt đầu phát triển ở giai đoạn này, số phim remake tăng dần và bãohòa vào năm 1995. 10 năm sau, vào thời điểm chuển tiếp giữa 2 năm 2000-2001, phong trào này lại khởi xướng trở lại, số phim remake dao động hằng năm 1-2 phim cho tới năm 2005, sau đó nó đi xuống lại. Có vẻ như tốcđộ phát triển về khoa học và văn hóa ngày nay cao hơn nhiều so với thập niên 90 đã rút ngắn chu kì remake phim lạ. Như vậy đỉnh của phong trào remake có thể xảy ra sau năm 2011.
Trên biểu đồ này, ta cũng có thể thấy trong một số giai đoạn, phim remake và sequel phát triểngần như song song với nhau (như suốt thập niên 90), điều đó nói lên điều gì ? Nhi cho rằng Hollywood luôn bị bão hòahay cạn về đề tài. Những năm mà phim sequel hạ xuống thấp nhất chính là thời điểmcủa một cuộc cách mạng nào đó trong phim ảnh, ví dụ năm 1999-2000, năm đó sẽ cónhiều phim hay và độc đáo ra đời.
Ngược vớiremake, đỉnh cao của phim sequel không phản ánh nhiều về tình hình phát triển củađiện ảnh, và nó không có chu kỳ, tất cả là ngẫu nhiên. Ví dụ năm 2005 phimsequel chỉ có 2 tác phẩm làHarry Potter 4, Star War 3…
Khi phântích về doanh thu, ta sẽ hiểu vì sao người ta thích làm sequel, vì chúng thu rấtnhiều tiền bán vé, và điều này không phụ thuộc vào chất lượng phim hay dở, chỉđơn giản là: cứ phim sequel thì sẽ có lợi nhuận rất cao, nhất là phần 2. Thật vậy,năm 1991 ta có Terminator 2, năm 1999 ta có Star War episode 1, đều đứng hạngnhất về doanh thu. Avatar của James Cameron là 1 ngoại lệ, 1 phim original đạtdoanh thu khủng, nhưng các bạn có thể tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra khi Avatar 2ra mắt…
5/20 phimdoanh thu cao nhất năm 2001 là phim sequels.
7/10 phimdoanh thu cao nhất năm 2002 là sequel
5/8 phimdoanh thu cao nhất 2004 là sequel, bao gồm Spiderman 2 mặc dù phần này khá dở…
Tỉ lệ nàyngày càng cao, ví dụ: 2/3 phim doanh thu cao nhất 2005 là sequel; năm 2006:5/9, năm 2007: 6/8,
Năm 2009, mặcdù Avatar là ngoại lệ như Nhi nói, nhưng 3 vị trí sau Avatar đều là phimsequels: Transformers 2 (thứ 2 ), Harry Potter and the Half-Blood Prince (3),and The Twilight Saga: New Moon (4),
…
Nhi thấy nhữngcon số này rất đáng sợ, nó cho thấy rằng sẽ đến 1 ngày nào đó người ta sẽ bị mờmắt vì lợi nhuận, khi đó chúng ta chỉ còn được xem phim sequels thì thật là taihọa…
Nếu loại bỏsự hào nhoáng giả tạo do những sequel này đưa đến, ta thấy rằng trong vòng 20năm qua có rất ít phim hoàn toàn mới và thực sự ấn tượng, con số này đếm trên đầungón tay:
Shrek, ToyStory, Harry Potter, Star Wars, Lord of the Rings, Transformers, Twilight,Spiderman, Batman, Iron Man, X-Men, Pirates of the Caribbean…
Ngược vớisequel, phim remake hiếm khi đoạt doanh thu cao, và cũng hiếm khi chúng đượckhen là hay hơn phim gốc… Phim Remake đạt doanh thu cao nhất trong lịch sử chính là True Lies (1994) , xếp hạng 3. Bằng phân tích thống kê (tài liệu tham khảo (1)): người ta thấy sự thật là
Gần đây,phim remake được đầu tư nhiều hơn nhưng nó chưa thoát khỏi lời nguyền bi đát vềdoanh thu và cảm nhận của khan giả. Ngay cả sau này doanh thu của remake có cảithiện, nhưng rất hiếm khi lọt top 5: Ocean’sEleven (hạng 8), Planet of the Apes (hạng 10) vào năm 2001, War of the Worlds (hạng4) và King Kong (hạng 5) năm 2005.
Tài liệu tham khảo:
(1) GinsburghV, Pestieau P, and Weyers S 2007 Are Remakes Doing as Well as Originals? ANote, Working Paper 2007/05, Center of Research in Public Economics andPopulation Economics, University of Liège.
Chỉnh sửa lần cuối: